QĐND - Năm 1865, chí sĩ Hoàng Phan Thái là một trong những người Việt Nam yêu nước đầu tiên bị triều đình Tự Đức chém đầu vì “tội” chống Pháp xâm lược, bấy giờ Phan Bội Châu mới 2 tuổi. Năm 1907, trên hành trình cứu nước, Phan Bội Châu viết Tiểu truyện Đầu xứ Thái, nhà yêu nước hậu sinh hết lời ngợi ca, suy tôn chí sĩ họ Hoàng lên hàng “Cách mạng khai sơn chi Tổ” (người khai sáng cách mạng).
Sau ngày triều Tự Đức cùng rồng năm móng tan thành bụi đất, rồi kế tiếp mấy đời vua không gỡ bỏ oan khuất do “quá mù ra mưa” khiến người yêu nước bị hành quyết. Giữa thế kỷ 20, chế độ phong kiến Việt Nam lùi vào lịch sử, vậy mà mọi thông tin về Hoàng Phan Thái vẫn như lá mùa thu.
 |
Một góc làng Cổ Đan, quê của nhà chí sĩ Hoàng Phan Thái. |
Chí sĩ Hoàng Phan Thái (1819-1865) người làng Cổ Đan, xã Đông Hải, tổng Đặng Xá, huyện Chân Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Hoàng Phan Thái là con đầu của Tú tài Hoàng Thừa Doãn, hậu duệ nhiều đời của danh tướng thủy binh Hoàng Tá Thốn (1254-1338). Nhà nghèo, cha mất sớm, Hoàng Phan Thái được mẹ nuôi ăn học. Bé Thái nổi tiếng thần đồng thông minh, học giỏi, đi thi xứ đứng đầu nên cư dân Cổ Đan gọi là Đầu xứ Thái, nhưng về sau, thần đồng mấy lần lều chõng đi thi đều phạm quy bị trượt. Đường thi cử không hanh thông, “thần” trở về làng dạy học kiếm sống, nhiều học trò được “thần” khai trí, khai tâm về sau đỗ đạt, giúp ích cho dân, cho nước, đại sư Nguyễn Thức Tự là một trong những học trò xuất sắc của Đầu xứ Thái.
Đường thi cử không hanh thông, bù lại, Đầu xứ Thái có biệt tài ứng đối đến mức trở thành giai thoại, được lưu giữ khá đậm trong tâm thức dân gian. Truyền rằng bé Thái 8 tuổi rất thông minh, ông tú làng bên biết tin chủ động đến nhà chơi, ông tú đọc câu: Khuôn vàng Phạm Lãi còn in tạc rồi thách bé Thái đối. “Thần đồng” ứng khẩu: Dùi sắt Trương Lương sẽ thử chơi. Mấy người hàng xóm cũng sang chứng kiến cuộc “voi đố kiến", thấy ông tú ôm bé Thái âu yếm, trước khi ra về ông tú nói với mọi người “thằng này có hùng chí”.
Qua một vài tác phẩm văn thơ Hoàng Phan Thái được người đời cất giấu giữ được, ta dễ nhận ra văn là người. Các sáng tác của ông cũng lẫm liệt như cuộc đời cách mạng của ông, đặc biệt trong các tác phẩm thể hiện rất đậm cái hùng chí, đúng như phát hiện sớm của cụ tú làng bên từ mấy chục năm trước. Với một Nam Đàn sơn thủy hữu tình, các danh sĩ nổi tiếng: Nguyễn Thiếp, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Bùi Dương Lịch… cũng từng một vài lần đến, song qua cảm thức thẳm sâu của Hoàng Phan Thái mới hiện lên hào quang của khởi nghĩa Hoan Châu hơn 900 năm về trước:
Thụ thập Đụn sơn bài kiếm kích
Phàm quy Lam phố động tinh kỳ
(Núi Đụn cây bàng như giáo dựng
Sông Lam buồm dựng tựa cờ giăng)
Cái hùng chí ấy đậm đặc trong đôi câu đối của Đầu xứ Thái cung tiến đền thờ Hưng Đạo Đại Vương ở Kiếp Bạc:
Phất ngọn cờ chỉ bến Bạch Đằng, một trận phong lôi lừng biển Bắc
Nhoay ngòi bút đề tên Thanh Sử, ngàn năm hương lửa chói trời Nam.
Hoàng Phan Thái vào tuổi trưởng thành lúc Tự Đức trị vì (1847-1883), sự lỗi thời, lỗi cuộc không tạo anh hùng mà còn trở giáo triệt tiêu mầm mống anh hùng. Vua Tự Đức ngồi trên đỉnh cao quyền lực mà không có điều kiện tiếp cận với phần còn lại của thế giới, vẫn bị trói chặt trong tư tưởng Nho giáo xơ cứng. Vua quyết liệt trong việc cấm đoán buôn bán công thương, rất chủ quan trước âm mưu xâm lược Đại Nam của thực dân phương Tây. So với các triều trước đó, triều Tự Đức chủ quan, mất cảnh giác, nhập nhằng về đường hướng chính trị, quân đội không được trang bị vũ khí hiện đại, tướng lĩnh lúng túng, bị động trong hoạch định chiến lược bảo vệ đất nước. Năng lực quốc phòng không đủ mạnh khiến Đại Nam bị ngoại bang thôn tính là điều khó tránh. Tháng 8-1858, Pháp bất ngờ tấn công Đà Nẵng, sau đó đánh chiếm Sài Gòn, bộ máy triều đình từ chủ quan đã nhanh chóng lúng túng, khiếp sợ sức mạnh quân sự Tây phương. Triều đình vốn rệu rạo không có giải pháp ứng phó, giờ lo đối phó với mâu thuẫn nội bộ, lo đối phó với áp lực không ngừng gia tăng từ bên ngoài, giữa bối cảnh như gà mắc tóc, bộ máy triều đình phân rẽ thành hai phái chủ hòa, chủ chiến.
Vua Tự Đức đứng đầu phái chủ hòa, ngày 5-6-1862 tại Sài Gòn, Tự Đức ký hiệp ước (còn gọi là Hiệp ước Nhâm Tuất) cắt ba tỉnh miền Đông cho Pháp, sự nhượng bộ này khiến người dân Việt Nam phản đối quyết liệt, sử gia Gốt-xơ-lanh (Gosselin) (Pháp) viết rằng: "Các Hoàng đế An Nam phải chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ và xuống dốc của đất nước. Dân xứ này, quan lại, binh lính xứng đáng có được những người cầm đầu có giá trị hơn thế. Chính quyền họ đã mù quáng vì không dự liệu, không chuẩn bị gì hết".
Sau khi triều đình để mất ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, các tướng Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Đạt vốn trung thành với triều đình cũng tỏ kháng cự bằng hành động, khiến triều đình Huế và bộ máy thống trị của Pháp lúng túng đối phó. Tại xứ Nghệ, Đầu xứ Thái vừa dạy học, vừa giao du ngoài Bắc, trong Nam tìm bạn để cùng thực hiện chí hướng cứu nước, ông trở về làng Cổ Đan lập Tân đảng, xưng Đông Hải Đại tướng quân, mộ được mấy trăm nghĩa binh đêm ngày luyện tập, chuẩn bị cuộc chống Tây, cứu nước. Việc bị lộ, năm 1865, Tự Đức ghép Đầu xứ Thái “tội phản nghịch”, sai quân về làng Cổ Đan vây bắt ông mang ra xử chém tại pháp trường Vinh (nay là mé Tây ngã ba Quán Bàu). Trước khi bị rơi đầu, Đông Hải Đại tướng quân vẫn ung dung đọc bài Tuyệt mệnh được ông nung nấu trong ngục tối vào đêm cuối cùng đời mình:
Ba hồi trống giục thây cha kiếp
Một lát gươm đưa đéo mẹ đời
Sống làm tướng mạnh ba phương đất
Thác xuống thần thiêng bốn phía trời
Từ pháp trường, bài Tuyệt mệnh đến được với đời là nhờ trí nhớ tuyệt vời của một lính Nam triều trong tốp lính thi hành án mờ sáng ấy, anh này trực tiếp nghe, thuộc rồi truyền lại cho người trong nhà.
Chí sĩ Hoàng Phan Thái ra pháp trường bấy giờ chưa manh nha phong trào Cần Vương; nhưng từ sau ngày “Hiệp ước hữu nghị” ký kết, dải đất mang tên Việt Nam đã như lò thuốc súng khổng lồ dưới chân thực dân Pháp cướp nước và triều đình Huế-bộ máy thống trị của một bộ phận quan lại tay sai bán nước. Giữa bối cảnh ấy, sự hy sinh lẫm liệt của Đông Hải Đại tướng quân giữ vai trò kíp nổ kích hoạt các cuộc khởi nghĩa yêu nước bùng lên sau đó.
Chí sĩ Hoàng Phan Thái ra pháp trường bấy giờ nhà yêu nước Phan Bội Châu mới lên 2 tuổi. Sau này, trên hành trình tìm đường cứu nước, năm 1907, cụ Phan viết Tiểu truyện Đầu xứ Thái, lên án triều Tự Đức sát hại chí sĩ yêu nước, suy tôn lên hàng khai sáng cách mạng giải phóng dân tộc. Cụ Phan là người đầu tiên dũng cảm xóa nỗi oan khuất cho chí sĩ yêu nước họ Hoàng. Trong Phan Bội Châu niên biểu, tác giả cho rằng: Tiểu truyện Đầu xứ Thái đánh dấu bước chuyển biến lớn về tư tưởng đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, mở đầu cuộc vận động chống lại chế độ phong kiến mục nát, kìm hãm sự phát triển của dân tộc Việt Nam.
Sang thế kỷ 21, ở TP Vinh, ở huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh, ở thị xã Hương Thủy-TP Huế… đều có đường lớn mang tên Hoàng Phan Thái. Vậy mà tại quê xã Phúc Thọ, chân dung vị khai sáng cách mạng vẫn bị phủ dày dưới lớp mờ huyền sử. Trong phả hệ của các chi phái họ Hoàng (lập trước và sau năm 1945) đều không thấy tên ông. Các cao niên họ Hoàng sinh trước năm 1930, hiện sống cùng con cháu tại Phúc Thọ và các xã cận kề đều không biết Đầu xứ Thái thuộc chi phái nào, trước khi hy sinh có vợ con hay không, nếu có thì hậu duệ gồm những ai, ở đâu, làm gì. Nghĩa là cái chết lẫm liệt của Đầu xứ Thái vẫn bảng lảng trong tâm thức cư dân xã Phúc Thọ và án oan triều Tự Đức trút xuống đầu ông vẫn là một tồn nghi ngay trong trực hệ chi họ Hoàng.
Hai nhà yêu nước vĩ đại quê xứ Nghệ đã về với thế giới người hiền. Cụ họ Hoàng bị chém. Đầu giữa thế kỷ 20, cụ họ Phan bị giam lỏng rồi mất trong uất hận. Hai thế hệ yêu nước cách nhau gần 100 năm vẫn chưa thực hiện được dù là một phần ước mơ, hoài bão đưa nước nhà tiến lên hạnh phúc, văn minh...
Bài và ảnh: GIAO HƯỞNG