Xóm Chài còn gọi là xóm Việt kiều. Bởi nơi đây, phần lớn các hộ dân trở về từ Cam-pu-chia sau một thời gian sống phiêu dạt. Nghèo, đông con, thất học, cuộc sống tạm bợ, mắc tệ nạn xã hội, tình trạng ly hôn… là đặc điểm chung của nhiều gia đình ở xóm này. Thế nhưng cũng nơi đây, một người phụ nữ đã 25 năm miệt mài “gieo chữ” trong lớp học tình thương được dựng lên trên đất của gia đình. Đó là cô giáo Bùi Thị Hoàn ở khu phố Thái Hòa, phường Long Bình Tân, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chòng chành tuổi thơ
Trưa, xóm Chài vắng tanh. Bà cụ ngồi trông cháu ở gần bãi sông nói: “Cả xóm đã đi cào, đi lưới từ sớm rồi. Chỉ còn mấy  đứa trẻ ở nhà ôn bài đấy”.
Chỉ hơn 200 hộ dân, nhưng xóm Chài rất đông trẻ con. Sinh ra trong cảnh nghèo, nhiều em sớm phải mưu sinh với nghề cào hến, bắt cá; có em bị lạm dụng tình dục, nghiện ma túy để rồi tuổi thơ phải nhọc nhằn trong tủi nhục, bệnh tật;  có em ở trong hoàn cảnh gia đình tan nát cha mẹ bị đưa đi cai nghiện, vướng vào vòng lao lý hoặc chết vì căn bệnh thế kỷ.
Cô Hoàn hú vọng ra vài tiếng. Một lúc sau, từ những chiếc bè lênh đênh trên sông ấy, vài đứa trẻ bơi vào. Nhìn nước da đen nhẻm, mái tóc đỏ quạch, xác xơ vì cháy nắng, quần áo ướt sũng, môi tím ngắt của các em, tôi không khỏi chạnh lòng. Cô kể, nhiều em mới vài ba tuổi đã phải theo cha mẹ đi cào hến, đóng đáy và lượm lặt tôm, cá dưới lòng sông. Nhưng bây giờ nước sông ô nhiễm, tôm, cá, hến, sò cũng chẳng về nhiều như xưa nên các em phải đi cạy vỏ củi, làm lò gạch hay bán vé số, lượm ve chai...
Em Vũ Xuân Hùng, 14 tuổi cùng em gái 10 tuổi xách cái xô có chừng chục con cá nhỏ đủ loại, lóp ngóp lội vào bờ. Hùng gầy nhom và đen nhẻm, nhưng tôi vẫn nhận ra nét mặt khôi ngô với đôi mắt sáng. Chuyện mưu sinh, Hùng kể: “Sáng sớm, bố mẹ em lên mãi Lò Phấn, Trị An để đóng đáy, thả câu. Ba hôm nay, em ở nhà để học nốt chương trình, chỉ phải đi câu buổi sáng”. Hùng cho biết, nhà em nghèo lắm, phần lớn thời gian trong ngày là lênh đênh trên sông nước. Cả em út của Hùng là Vũ Xuân Sáng mới 3 tuổi cũng phải đi cùng cha mẹ với nhiệm vụ tát nước trong xuồng và lựa cá.
Mặt trời lên cao cũng là lúc con nước xuống để lộ bãi sình đầy rác rưởi. Hai cô bé Vũ Thị Ngọc Ánh và Đào Thị Ngọc Anh lụi cụi nhặt những con hến, con cua hiếm hoi. Ánh nói: “Trước ở bãi này nhiều hến lắm, mỗi ngày cào được cả rổ, bây giờ nước sông ô nhiễm, bãi lại có nhiều rác rưởi nên cua, hến cũng không về. Mỗi buổi nhặt gần ký, bán được 4.000 đồng. Có hôm đạp phải miểng chai, sắt nhọn, chân đau  phải về không”. Còn Hoàng Quốc Vinh được bạn bè giới thiệu là một tay mò tôm rất cừ. Tuy đã 12 tuổi nhưng Vinh nhỏ thó như đứa trẻ lên 8. Tôi hỏi sao “đẹt” vậy, Vinh cười: “Dạ con lặn sông nhiều quá nên người… quéo lại”. Mỗi ngày, Vinh theo cha dòng ghe xuống đi tuốt Nhơn Trạch để mò tôm. Có hôm “trúng” bắt cả ký cũng được 80.000-100.000 nghìn đồng, có hôm chỉ đủ mang về ăn. Thấy các bạn tụ tập trên bờ, em Đào Hoàng Vĩ Khang, 9 tuổi cũng ghé  xuồng vào. Khang là một đứa trẻ bất hạnh, em bị thiểu năng trí tuệ, cha mẹ bỏ nhau từ khi em lên 2 tuổi, từ đó Khang ở với bà nội hơn 70 tuổi. Dù thiểu năng, nhưng ngày ngày Khang cũng đi mò cua, bắt ốc để bà cháu có cái ăn hằng ngày.
Cô Bùi Thị Hoàn hướng dẫn các em đọc bài. 

Chắp cánh những ước mơ...
Với nhiều em ở xóm Chài, đi học là một chuyện xa vời. Thương cho tương lai các em, thoạt đầu cô Hoàn “gom” vài em về nhà dạy. Rồi lớp học cứ đông lên. Suốt 25 năm qua, nhiều thế hệ học trò nghèo đã trưởng thành từ “trường cô Hoàn”. Trong số ấy, có em đã học lên cao đẳng, đại học.
Vốn là một giáo viên Anh văn của Trường THCS Long Bình Tân, nhưng do hoàn cảnh khó khăn, cô Hoàn đã bỏ dạy quay sang buôn bán nuôi hai con nhỏ. Nhưng nghiệp “trồng người” ngày đêm vẫn thôi thúc, cùng với tình thương những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, năm 1989, cô đã “dốc” hết số tiền dành dụm, cất một phòng học nhỏ bằng tôn trên đất của nhà làm nơi dạy học. Từ  chỗ chỉ vài em, dần thành một lớp học “5 trong 1” với sĩ số thường xuyên khoảng 30-50 em.
Một buổi chiều, theo chân các em đến lớp học, trước mắt tôi là những gương mặt sạm nắng đen đúa, những bàn tay nhỏ nhắn nhưng thô ráp, những mái tóc hoe vàng vì nắng gió, phảng phất là mùi mồ hôi và cả mùi tanh của cá… do nhiều em đi cào về chưa kịp tắm rửa mà chạy ngay đến lớp cho kịp giờ. Hùng đang học lớp 5 của "trường cô Hoàn" dù đã 14 tuổi. Trước đây, em cũng đi học trường công, nhưng cuộc đời lênh đênh sông nước của cha mẹ đã dứt em ra khỏi việc học. Hôm cô Hoàn mở lớp đêm, Hùng đăng ký theo học lại từ đầu dù lúc đó em đã 11 tuổi. Tôi hỏi:  “Hùng có ngại không khi lớn tuổi mới bắt đầu học lại?”. Hùng trả lời: “Cháu không ngại vì ở đây nhiều bạn cũng thế”. Ngọc Ánh-em gái Hùng cũng học “trường cô Hoàn” và có lẽ đứa em út 4 tuổi rồi cũng sẽ học ở đây. Vì với thu nhập chỉ để bảo đảm cái ăn thường ngày đã khó, việc cho các con đến trường của cha mẹ Hùng cũng rất xa xăm. Khi hỏi Ngọc Ánh có ước mơ gì trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo, em cười hồn nhiên, lắc lắc cái đầu thay cho câu trả lời.
Không chỉ Hùng, trong lớp còn nhiều em khác 15, 16 tuổi vẫn chịu khó ngồi học chung với những em nhỏ hơn mình rất nhiều. Hỏi về ước mơ sau này, Minh Ngọc, 12 tuổi vẫn mặc bộ quần áo ướt từ bãi cào về, em cười buồn:  “Em không có ước mơ gì xa xôi, chỉ muốn học được chữ để sau này đi làm công nhân giúp ba mẹ”. Còn Vũ Văn Tiến thì ước mơ trở thành kỹ sư, Tèo Anh lại thích giỏi vi tính, có em chỉ ước mơ ngày được hai bữa no... Cô Hoàn tâm sự: “Các em ở lớp học này rất đáng thương. Cuộc sống nghèo khó của cha mẹ khiến các em thiệt thòi. Nhiều em đã lớn nhưng việc học luôn dang dở vì phải theo cha mẹ lênh đênh sông nước nay đây mai đó. Nhiều gia đình khi về “định cư” ở xóm Chài, biết có lớp tình thương dành cho học trò nghèo mới đến đăng ký cho con đi học lại. Có gia đình chẳng quan tâm, tôi phải đi vận động mãi mới cho con đến lớp. Có nhà 3-4 anh em đều học chung bắt đầu từ lớp 1. Thà các em “ngồi nhầm lớp” còn hơn không đi học”.
Năm học này, lớp có gần 60 em và vẫn phải chia làm 2 ca: Lớp 1, 2, 3 học ngày lẻ, còn lớp 4, 5 học ngày chẵn. Dù thế, cô Hoàn vẫn chưa yên tâm vì trong số 214 trẻ có hoàn cảnh đặc biệt của phường, còn nhiều em chưa đến lớp. Thấy được hiệu quả từ lớp học tình thương này, trước đây Phòng giáo dục Biên Hòa cũng công nhận lớp học, giao cho cô Hoàn phụ trách chương trình xóa mù chữ và phổ cập tiểu học cho trẻ em nghèo trong phường, đồng thời trả thù lao đứng lớp cho cô Hoàn. Mỗi em hoàn thành chương trình chống mù chữ, cô Hoàn được trả 30.000 đồng và 50.000 đồng cho mỗi em hoàn thành chương trình phổ cập tiểu học. Thường thì khoản thù lao ấy, cô Hoàn lại dùng để mua tập vở, sách, bút cho các em. Nhưng 5 năm nay, chẳng biết vì lẽ gì, chuyện trả thù lao bị “quên”, nhưng lớp học chưa một ngày gián đoạn.
Nhiều thế hệ học trò đi qua, phần lớn là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nên việc "ươm chữ" của cô Hoàn thật nhọc nhằn. Chữ viết của các em chưa thật đẹp vì đôi tay quen mò cua, mò ốc, kéo lưới, đánh cá... nhưng quyển vở nào cũng được giữ gìn sạch sẽ, cẩn thận. Năm 2015, một con số ấn tượng từ lớp học tình thương của cô Hoàn được  ngành giáo dục Đồng Nai ghi nhận: 25 năm qua, đã có gần 2.000 em hoàn thành chương trình phổ cập tiểu học. Song, theo cô Hoàn, do xuất phát từ hoàn cảnh khó khăn, bận mưu sinh, bản thân cha mẹ các em phần lớn không có nền tảng kiến thức vững vàng nên việc tiếp thu kiến thức của các em rất hạn chế, một số em thiểu năng thì tiếp thu rất chậm, có em học 10 năm nhưng vẫn không lên được lớp.
Trái tim người mẹ
Chắp cánh tương lai, nhưng cô Hoàn không quên “ươm mầm” lòng nhân ái nơi các em. Với tấm lòng người mẹ, cô còn dạy các em từng lời ăn tiếng nói, dạy phải biết yêu thương, tha thứ, sống vì mọi người… Nhiều em vì thế mà tránh được những cám dỗ, sa ngã, biết sống hiếu thảo.
Để duy trì lớp học “5 trong 1” này, mỗi tháng cô phải bỏ ra 500.000 đồng để chi tiền điện, nước, đồ dùng dạy học, mì gói, mua gạo nấu cơm cho những em đến lớp với cái bụng rỗng ăn tạm lấy sức học hết buổi. Trước bức bách về nhiều khoản chi, cô Hoàn phải chạy nhiều nơi, gõ cửa, “níu áo” mạnh thường quân xin ủng hộ để duy trì lớp học. Thương cô trò lớp học tình thương nghèo, cuối năm vừa rồi, một doanh nghiệp đã xây lại cho một phòng học mới khang trang ở tại nền lớp cũ.
Tuổi 67 với một người phụ nữ, cô Hoàn thấy sức khỏe mình cạn kiệt, nhưng vẫn chưa thôi đứng lớp, chưa thôi lo toan. Với khoản tiền lương của một Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ phường, cô luôn phải “giật gấu, vá vai” để đắp đỗi đời thường. Cô tâm sự: “Trước đây, con gái phụ mình dạy lớp 1 và lớp 2, còn mình dạy lớp 3, 4, 5. Nhưng từ khi cháu có chồng, sinh con thì không phụ mẹ được nữa. Dạo ấy cũng có một cô giáo ngỏ ý muốn thay tôi đứng lớp. Nhưng khi nghe nói dạy không có phí thì cô ấy lẳng lặng bỏ đi. Hiện tôi đang nuôi hai em học cao đẳng sư phạm để sau này thay tôi đứng lớp. Nhưng không chắc sau khi ra trường, các em sẽ tiếp tục sự nghiệp của tôi”-cô Hoàn băn khoăn.
Chiều tối đứng lớp còn ban ngày cô Hoàn chạy vạy khắp nơi xin đồ dùng dạy học, xin quần áo cũ về giặt sạch rồi chia cho các em. Nhiều khi cô thấy mình cũng đuối lắm, nhưng nghĩ đến các em, cô lại cố, cố đến chừng nào không thể nữa thì thôi. Những năm có các khoản tiền tài trợ lớn, cô mua thẻ bảo hiểm y tế cho học sinh, đến nay cũng đã được hơn 50 thẻ. Nói về tình thương của cô Hoàn dành cho những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, em Đào Thị Diễm tâm sự: "Cô Hoàn rất thương chúng con. Cô tận tâm, dạy dễ hiểu. Con thích nói chuyện với cô vì cô luôn gần gũi, chia sẻ với con. Cô thương con hơn cả mẹ ruột" .
Với trái tim nhân hậu cùng 25 năm cống hiến sức lực, tiền bạc, tâm huyết cho lớp học, sức cùng lực kiệt, năm ngoái cô báo với các em sẽ nghỉ dạy nhưng thấy các em khóc, chiều chiều vẫn tất tả chèo ghe sang học, cô lại không nỡ giải tán lớp. “Cái nghiệp của mình là gắn bó với học sinh nghèo nên chừng nào còn giảng bài được thì mình còn đứng lớp. Bởi từ lâu lắm rồi, ánh mắt, tiếng cười, tiếng đọc bài ê a của các em đã là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mình”-cô Hoàn tâm sự.

 
Bài và ảnh: PHƯƠNG LIỄU