QĐND - Từ thành phố Nam Định (tỉnh Nam Định) chúng tôi qua cầu Đò Quan rồi theo đường liên huyện số 55 chạy giữa cánh đồng đang mùa lúa chín. Một màu vàng tươi mượt mà và xa tít tắp. Lác đác tầm mắt bị vấp hoặc bị che chắn bởi những xóm làng trù phú có tháp chuông nhà thờ cao vút như đang ướm bóng vào trời xanh. Mải mê với cảnh quan, chúng tôi đã tới thôn Phú Hào, xã Nam Thái, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định lúc nào không biết.
Nhà ông Nguyễn Trung Kiên khang trang, thoáng đãng trong một khuôn viên rộng giáp với cánh đồng lúa ở đầu làng. Năm nay ông Kiên vừa tròn 60 tuổi, khuôn mặt trái xoan, hiền từ, dáng người nhỏ thấp trong bộ quần áo màu nâu nhạt. Còn bà Đào Thị Mận (vợ ông) thì kém ông hai tuổi, nét đảm đang, chịu đựng và quán xuyến trong gia đình đã hiện hữu trên khuôn mặt phúc hậu. Ông bà Kiên - Mận thật đẹp đôi, đẹp duyên như người ta vẫn nói “trời cho”…
Ông Nguyễn Trung Kiên sinh ra ở chính cái thôn Phú Hào nhỏ bé và hiền lành này. Lớn lên ông đi công nhân, tham gia xây dựng Nhà máy điện Ninh Bình. Đầu năm 1972, ông tình nguyện nhập ngũ rồi vào miền Nam chiến đấu với nhiệm vụ chiến sĩ trinh sát của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1, Sư đoàn 9, mặt trận miền Đông Nam Bộ. Thời kỳ này, ta và địch trong thế cài răng lược, do đó cứ đi một bước là được cơ sở dẫn đường, từng trận đánh phải có nhân dân góp của, góp công. Mọi chiến thắng của đơn vị đều có sự tham gia của bà con xóm ấp đã tạo cho ông Nguyễn Trung Kiên lòng biết ơn và đức tin ở con người. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 lịch sử, ông Kiên cùng đơn vị đánh vào khu vực ngã tư Bảy Hiền, chiếm Bộ Tổng Tham mưu ngụy, giải phóng khám Chí Hòa rồi làm công tác quân quản. Sau đó ông được tăng cường cho Ban Tuyên giáo Quận ủy quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh làm nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng cuộc sống mới.
 |
Ông Nguyễn Trung Kiên (đứng) và con rể Nguyễn Thế Dũng. |
Tháng 3 năm 1978 xuất ngũ về quê, là một cựu chiến binh, ông tiếp tục tham gia công tác an ninh, làm Chi Hội trưởng Nông dân, Trung đội trưởng dân quân và xã đội phó. Nhưng với vài sào ruộng khoán, vợ chồng ông không nuôi nổi năm người con (ba gái, hai trai) đang tuổi ăn, tuổi lớn. Ông tìm vào Đà Nẵng để đào vàng mong được đổi đời. Nhưng gần một năm lao động quần quật, hiểm nguy, đói khổ như một tên nô lệ của các ông chủ mà vẫn trắng tay. Lần lữa và thêm phần may mắn, ông Kiên đào thoát mang được thân về nhà nhưng đã mang vào mình căn bệnh sốt rét rừng. Có lần cơn sốt rét đã làm ông Kiên chết lâm sàng hơn 8 tiếng đồng hồ... nhưng rồi sống lại. Thấy mình run rẩy chân tay không còn làm nổi việc gì, ông Kiên xin ra chùa Đông Linh Tự làm ông từ để ăn mày nơi cửa Phật và dưỡng sức. Đông Linh Tự là ngôi chùa nhỏ, thờ ba vị Tam thế và Phật bà Quan âm Bồ tát, sớm tối được ông Nguyễn Trung Kiên tụng kinh gõ mõ, có bóng người, trong ngoài nhà chùa tinh tươm, sạch sẽ, cây cối như cũng xanh tươi trở lại, dân làng tới thắp hương ngày rằm, mồng một ngày càng đông hơn.
Mùa hè năm 2004, thôn Phú Hào thân thương nằm giữa cánh đồng lúa mênh mông bỗng xuất hiện hai thanh niên rất đáng chú ý và đáng ngại. Đó là hai anh em ruột cũng là hai con nghiện đều có thân hình cong queo, khô đét, xanh đen vì xăm trổ đầy người như hai chiếc lọ độc bình lớn và vô dụng. Người anh là Nguyễn Thế Hùng và em là Nguyễn Thế Dũng ở Hải Phòng về “chơi” quê ngoại. Sau này Hùng chết vì ma túy, còn Dũng sinh năm 1968, lúc này đã có 24 năm nghiện ma túy và 8 năm tù giam với các tội danh buôn bán ma túy, trộm cắp, đánh lộn gây rối trật tự công cộng (chúng trộm cả tượng Phật để mang đi bán thì không còn gì phải bàn thêm)… Hai anh em thường ra ngồi bên đường liên xã và sinh sự với người qua lại, trêu chọc phụ nữ, gây gổ với thanh niên khiến dân làng không ai dám chạm mặt. Nhiều người phải vòng tránh hoặc quay trở lại. Một lần từ chùa về nhà, ông Nguyễn Trung Kiên cũng bị Dũng lao ra chặn lối rồi đánh phủ đầu. Bằng kinh nghiệm của người lính trinh sát, ông Kiên túm tay, quật Dũng ngã xuống đường rồi lẳng lặng bỏ đi. Chiều hôm ấy Dũng đã tìm ra chùa để xin lỗi ông.
Dũng đã kể cho ông nghe về thân phận của mình cùng nỗi hối hận và bi quan, mặc cảm. Với sự từng trải và lòng từ bi của nhà Phật trong những trang kinh kệ: “Cứu một người phúc đẳng hà sa”, sau khi động viên vợ (bà Đào Thị Mận) và các con, ông Kiên nhận Dũng làm con nuôi và cai nghiện cho anh. Ông nói: "Nếu không cai nghiện, Dũng chẳng còn con đường nào khác vì bị cộng đồng xa lánh và sẽ chết như người anh của mình". Nguyễn Thế Dũng đã theo ông ra ở chùa, sớm tối giúp ông đèn nhang và lao động trong vườn. Ông dạy Dũng cày cấy, trồng ngô khoai, bắt sâu nhổ cỏ. Ông chủ trương lấy lao động để cải tạo Dũng thành người lương thiện, biết tôn trọng sản phẩm do bàn tay mình làm ra. Từ lao động mà quên ma túy, để ra mồ hôi, bài tiết những chất độc hại trong cơ thể. Ông cũng không cho Dũng đi xa, giao du với người lạ. Mùa đông cũng như mùa hè, ông giục Dũng làm cho ra mồ hôi rồi đi tắm, càng ra mồ hôi tắm nhiều càng tốt. Đêm đêm ông đốt đèn, cho tay vào túi giấy bóng nặn những ổ lở loét trên người Dũng rồi nấu nước là bưởi, lá ngải cứu cho Dũng tắm. Ban đầu ông cho rằng Dũng chỉ là con nghiện, nhưng khi được xã cử đi tập huấn về phòng, chống ma túy trên huyện thì ông mới biết có thể Dũng đã bị nhiễm HIV/AIDS nên càng thương hơn. Có lần Dũng nhớ cuộc sống giang hồ, bỏ đi, ông Kiên đuổi theo phân trần điều hơn lẽ thiệt, rồi bắt buộc Dũng trở về. Có lần Dũng lấy dao chém, hay đe dọa giết, nhưng ông không sợ, càng chăm sóc Dũng tốt hơn. Mỗi khi lên cơn nghiện Dũng giục ông: “Bố trói con lại đi, nhanh lên. Con xin bố”, nhưng ông chỉ ôm chặt Dũng vào lòng, cho uống hai, ba chén rượu rồi xoa bóp cho anh ngủ. Năm tháng với nhiều cam go qua đi, những cơn nghiện thưa dần rồi dứt hẳn. Ông đưa Dũng tới Trung tâm Y tế làm xét nghiệm và thật vui mừng vì bố con ông đã thành công. Đêm ấy, ông chợt thức giấc, thấy Dũng đang xì xụp dưới chân giường liền giật mình quát lớn: “Dũng, mày làm gì?”. Dũng vẫn quỳ dưới nền nhà nức nở: “Con chỉ xin lạy trộm bố mấy lạy thôi”.
Cuối năm 2006, người con gái thứ ba của ông Kiên, bà Mận là Nguyễn Thị Hằng, sinh năm 1979 làm công nhân trong Thành phố Hồ Chí Minh về thăm và ăn tết với gia đình. Ông bà bàn nhau gả Hằng cho Dũng. Ban đầu Hằng không nghe, cô kêu khóc: “Bắt con lấy hắn thà bố mẹ giết con đi”; “Nó đã mang tiếng là thằng nghiện, con không lấy, thì không đứa nào dám lấy nó, đời nó sẽ không có vợ”. Mưa dầm thấm lâu, gia đình ông tổ chức đám cưới rồi lấp một cái ao, làm ngôi nhà ba gian cấp bốn cho đôi trẻ. Hằng đã sinh cho Dũng một cậu con trai là Nguyễn Thế Cường, nay được 5 tuổi, xinh xắn, nhanh nhẹn và đang học lớp mẫu giáo của thôn. Hai vợ chồng cấy một mẫu ruộng, mỗi năm trồng hai vụ lúa và một vụ màu là đỗ tương, ngô hoặc rau quả. Vợ chồng Dũng - Hằng còn kết hợp chăn nuôi gà, lợn... cho thu nhập khá.
Giờ đây trong ngôi nhà hạnh phúc của Dũng - Hằng đã có ti-vi màu, xe gắn máy... cuộc sống có bát ăn bát để và tươi xanh như những chậu lộc vừng, chậu xanh si... tỉa tót rất nghệ thuật mà Nguyễn Thế Dũng xếp đặt quanh nhà. Đó phải chăng là “phúc đẳng hà sa” mà ông Nguyễn Trung Kiên đã đi tìm bằng tấm lòng của Phật.
Bài và ảnh: Tô Kiều Thẩm