QĐND - Một ngày đầu tháng 5-2012, có một cựu chiến binh đến Trụ sở Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam, trao bản danh sách liệt sĩ của các Trung đoàn 44, 46 và 101 (Sư đoàn 1-Mặt trận Tây Nguyên). Hỏi chuyện ông, chúng tôi được biết ông là Nguyễn Duy Quyết, người đã viết hàng nghìn bức thư cung cấp thông tin về liệt sĩ gửi các cơ quan, đơn vị và gia đình liệt sĩ. Việc làm đầy tình nghĩa của ông đã giúp các gia đình liệt sĩ tìm được hơn 500 hài cốt liệt sĩ, có đầy đủ danh tính và đã được quy tập về các nghĩa trang liệt sĩ.
Ông sinh năm 1949 ở xã Bình Thành, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Năm 1966 khi đang học lớp 9 phổ thông (hệ 10 năm), ông khai tăng tuổi để được đi bộ đội. Đơn vị đầu tiên ông đến là Sư đoàn 1 - Mặt trận Tây Nguyên. Ông là lính trinh sát của sư đoàn. Gần 10 năm tham gia chiến đấu trên các chiến trường Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, nước bạn Cam-pu-chia rồi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Năm 1978, ông được điều về Vùng 5 hải quân, chiến đấu ở Mặt trận biên giới Tây Nam và Cam-pốt (Cam-pu-chia). Năm 1993, ông về nghỉ hưu từ Bộ CHQS tỉnh Thái Nguyên với quân hàm trung tá. Khi được hỏi cơ duyên nào thúc đẩy ông đi tìm mộ liệt sĩ, giọng ông trầm xuống: “Tôi có người anh trai là liệt sĩ Nguyễn Văn Cao, chiến sĩ Điện Biên. Hòa bình lập lại, anh tôi phục viên. Sau Tết Mậu Thân năm 1968, anh tôi làm đơn xin tái ngũ, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Năm 1972 anh tôi hy sinh, đến nay gia đình vẫn chưa tìm được nơi anh yên nghỉ. Vì vậy, tôi thấu hiểu nỗi đau mất mát của các gia đình liệt sĩ, nỗi day dứt khôn nguôi khi họ chưa tìm được nơi yên nghỉ của người thân. Nhiều khi gặp cha mẹ liệt sĩ cùng đơn vị, hỏi tôi: Anh có biết em nó nằm ở đâu để gia đình đi tìm? Lúc ấy tôi như chết lặng đi”.
 |
Ông Quyết (giữa) trao đổi với các gia đình liệt sĩ. Ảnh: Quang Thanh. |
Hơn 10 năm chiến đấu cùng đồng đội trên các chiến trường, nhiều lần ông trực tiếp chôn cất đồng đội hy sinh tại mặt trận. Đất nước đã hòa bình hơn ba mươi năm, không thể để đồng đội mình nằm mãi nơi rừng sâu, hay đồng bằng, sông nước được. Nỗi niềm đi tìm đồng đội cứ trăn trở, day dứt khôn nguôi trong lòng ông. Trong một lần gặp mặt cựu chiến binh Trung đoàn 101 (Quân khu 9), thăm lại chiến trường xưa và dự hội thảo về công tác tìm kiếm hài cốt liệt sĩ do Phòng Chính trị Bộ CHQS tỉnh An Giang tổ chức; ông bỗng nhớ lại tất cả những gì mình còn lưu giữ trong chiến tranh. Ông tâm sự: “Là người làm công tác quân lực, chính sách từ cấp tiểu đoàn đến cấp sư đoàn trong một thời gian dài đã tạo cho tôi có ý thức ghi chép và lưu trữ số liệu vào sổ sách. Cứ mỗi lần phải ghi vào sổ tên cán bộ, chiến sĩ hy sinh, quân số đơn vị thấp xuống là tim tôi lại nhói đau, cầm bút ghi mà những giọt nước mắt nhớ thương đồng đội nhỏ xuống làm nhòe cả trang sổ. Vì vậy, tôi cảm thấy có lỗi với đồng đội nếu không cùng gia đình đi tìm được họ về…”. Hỏi ông về quá trình tìm kiếm đồng đội, ông ngồi lặng đi một lát rồi kể tiếp: “Đầu tiên, tôi tìm lại tài liệu mà tôi còn giữ được, sau đó tôi đến Phòng Chính sách các Quân khu 5, 7, 9 và đơn vị để lấy tư liệu. Điều quan trọng là phải tìm và đối chiếu từng danh sách liệt sĩ với bản sơ đồ mộ chí từng trận đánh, của từng đơn vị, tiếp đó đi khảo sát tại các địa điểm theo sơ đồ mai táng ở các vùng chiến sự năm xưa. Cái khó là trước đây quy định khi mai táng liệt sĩ chỉ ghi họ, tên, phiên hiệu đơn vị, không ghi quê quán nên khi đối chiếu xác định danh tính rất khó khăn. Hơn nữa, năm tháng chiến tranh qua đi, dấu tích địa hình nơi chôn cất liệt sĩ đã thay đổi quá nhiều, vì thế, việc tìm kiếm gặp vô vàn khó khăn. Có những nơi tôi phải đi lại rất nhiều lần để tìm hiểu và hỏi thăm người dân địa phương rồi mường tượng ra nơi chiến trường xưa như thế nào. Sau đó, rồi mới cung cấp các thông tin cho các đội quy tập liệt sĩ của các Bộ CHQS các tỉnh để tìm kiếm”.
Có những nơi ông viết thư cho gia đình, thân nhân liệt sĩ, nhưng cũng có người, cha mẹ liệt sĩ không còn, anh em đi làm ăn xa nên thư thất lạc cũng không ít. Có trường hợp quê quán thay đổi, ông phải gọi qua tổng đài 1080 nhờ chỉ dẫn, qua anh em bè bạn, người thân để dò hỏi. Có những hôm ông thức thâu đêm để tra cứu, đối chiếu giữa quê quán ghi trong hồ sơ với quê quán hiện tại. Bởi lẽ ngay cả hồ sơ trước đây ghi chép cũng có trường hợp sai chi tiết… Nhiều khi, gửi mãi không thấy gia đình liệt sĩ hồi âm, mặc dù ông đã ghi cả địa chỉ, số điện thoại di động, nhà riêng cho họ, ông không nản lòng lại tiếp tục gửi thư lần 2, lần 3… Ông bảo, những lúc như thế, ông cảm giác như các liệt sĩ-những người đồng đội-ùa cả về bên ông để cùng nhau tìm kiếm. Phần lớn các gia đình sau khi nhận được thư ông gửi, họ đều giãi bày tình cảm với ông, có người sau mấy chục năm tìm kiếm không thấy nay nhận được thông tin kèm theo sơ đồ chỉ dẫn cụ thể do ông gửi họ vô cùng cảm ơn về việc làm đầy nhân nghĩa và đậm tình đồng đội của ông. Người ở xa thì gọi điện, gửi thư, người ở gần đến nhà đề nghị ông đi tìm cùng họ. Không ít người do hoàn cảnh khó khăn, nên việc tìm kiếm không thể một sớm một chiều, ông đã chia sẻ với họ, giới thiệu họ cho các đội quy tập hài cốt liệt sĩ để tìm kiếm. Ông bảo: “Nhiều gia đình yêu cầu tôi đưa đi tận nơi, nhưng có nơi tôi đi được, có nơi do bận không đi được thì tôi vẫn dõi theo họ đến khi có kết quả”.
Có những kỷ niệm mà ông nhớ mãi, ấy là đầu năm 1973 đơn vị ông được bổ sung hai chiến sĩ đều quê ở Hải Hậu (Nam Định) tên là Trần Văn Hoan và Trần Văn Nhật, cả hai đều sinh năm 1953. Tháng 9-1973, trong một trận chiến đấu không cân sức giữa ta và địch, cả hai anh đều anh dũng hy sinh. Đơn vị đem họ về mai táng tại chùa Sôm (phum Tà Ô, Ki-ni-vông, tỉnh Tà-keo, Cam-pu-chia). Ông là người trực tiếp chôn cất họ. Khi mai táng, ông bảo anh em: “Hoan và Nhật mất vừa tròn 20 tuổi, ta lấy mốc cố định 20m tính từ tam cấp chùa trở ra phía vườn chùa cho dễ nhớ. Sau này ai có liên lạc được với gia đình thì nhớ vậy để dễ tìm”. Khi ấy không có hòm ván, đơn vị tìm được hai cánh cửa nhà dân và để hai anh trên tấm ván. Anh Trần Văn Hoan là người theo đạo thiên chúa, nên khi mai táng, ông và các đồng đội đặt cả cây thánh giá lên ngực anh.
Năm 2006, sau khi liên lạc được với gia đình, ông cùng gia đình và Đội quy tập K93 sang tìm hài cốt của hai anh. Ngôi chùa trước đây không còn nữa, trước mắt ông chỉ còn một đống gạch vụn đổ nát, hỏi ra ông mới biết, lính Pôn Pốt đã tàn phá ngôi chùa này vào giữa năm 1978. Nhớ lại con số 20 trước đây, ông đề nghị anh em đội quy tập tìm dấu tích bậc tam cấp và đào theo sơ đồ ông vẽ. Khi thấy hài cốt của Trần Văn Hoan, cây thánh giá vẫn còn nguyên vẹn. Ngoài cây thánh giá, còn có tấm ảnh một người con gái có mái tóc dài rất đẹp, tiếc là khi đưa lên mặt đất không được bao lâu thì tấm ảnh bị mờ hết, ông đề nghị gia đình đem cây thánh giá về lưu giữ làm kỷ niệm.
Một kỷ niệm nữa là năm 2010, khi tìm 14 liệt sĩ hy sinh tại cao điểm 201 (núi Hòn Chông, thuộc xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang). Sau khi viết thư cung cấp thông tin về họ tên, ngày tháng nhập ngũ, đơn vị nhập ngũ, quê quán, trường hợp hy sinh, nơi hy sinh và địa điểm mai táng liệt sĩ cho các gia đình, ông hẹn họ cùng đội quy tập đi vào tận nơi. Mấy chục năm sau hòa bình, cứ ngỡ đồng đội mình đã được yên nghỉ ở các nghĩa trang liệt sĩ, nhưng đến nơi, cảnh vật chẳng còn như xưa, có nơi cỏ mọc um tùm đến vắng lặng, nỗi buồn nặng trĩu lòng ông. Ông đề nghị đội quy tập báo cáo chính quyền địa phương và mời nhân dân đến uống nước chè Thái Nguyên đem từ Bắc vào, rồi nhờ mọi người ai biết mộ chí các liệt sĩ ở đâu thì báo giúp. Rất nhiều ý kiến đưa ra được bà con, cô bác địa phương bàn bạc, thảo luận, một người dân đã dẫn đội quy tập và ông cùng 14 gia đình đến tận nơi. Mười bốn hài cốt liệt sĩ đã được tìm thấy theo đúng số thứ tự trong sơ đồ và số thứ tự danh sách liệt sĩ. Khỏi phải nói niềm cảm động của các gia đình như thế nào khi họ tìm thấy hài cốt của các liệt sĩ và chuyển về mai táng tại nghĩa trang quê hương.
Trong trận đánh ở đồi Bãi Ớt, (thuộc xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang), có 9 liệt sĩ hy sinh. Ông viết thư cho các gia đình và cung cấp danh sách cho Đội quy tập K92, Bộ CHQS tỉnh Kiên Giang, nhưng có một gia đình không liên lạc được. Cuối cùng, ông cùng 8 gia đình vào tìm. Khi đào lên chỉ tìm thấy 8 hài cốt, còn một hài cốt của gia đình không liên lạc được thì lại không tìm thấy. Tám gia đình trên đã đề nghị ông thông tin giúp cho Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam gửi đi giám định ADN, kết quả tìm được danh tính cả 8 liệt sĩ. Sáng 11-5 vừa qua, Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam đã tổ chức trao cho các gia đình trong niềm cảm động khôn xiết.
Hiện nay, ông nghỉ hưu ở số nhà 246, phố Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên, tham gia sinh hoạt hội cựu chiến binh, tham gia cấp ủy và là Phó bí thư chi bộ tổ dân phố. Hằng ngày ông vẫn viết và gửi thư, đến nỗi nhân viên bưu điện ở gần nhà đã quen mặt và coi ông như người trong nhà. Tiền mua tem và phong bì, tiền đi lại để tìm hài cốt các liệt sĩ đều từ đồng lương hưu ít ỏi hằng tháng của ông. Chúng tôi được ông đưa cho xem hàng trăm lá thư của các gia đình liệt sĩ gửi tới cảm ơn và thể hiện sự quý trọng trước việc làm đầy tình nghĩa của ông. Những bức thư ấy được ông nâng niu, giữ gìn như những món quà vô giá. Ghi nhận trước việc làm của ông, Hội Cựu chiến binh tỉnh Thái Nguyên đã tặng ông giấy khen, Tỉnh ủy Thái Nguyên tặng ông bằng khen, đặc biệt năm 2010 ông được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen về những việc làm nặng tình đồng đội ấy.
Chia tay chúng tôi, ông tâm sự: “Vợ tôi là giáo viên tiểu học đã nghỉ hưu, bà ấy và các cháu khi biết việc tôi làm thì luôn động viên, giúp đỡ tôi. Bà ấy luôn cáng đáng việc nhà cho tôi đi tìm đồng đội. Với những người đã ngã xuống, chúng ta còn nợ họ nhiều lắm! Ngày nào tôi còn khỏe thì còn viết thư cho các gia đình liệt sĩ và còn đi tìm đồng đội”.
Phan Thao - Quý Hoàng