Từ cảnh sống “chạy nghèo lại gặp đói”…
Sinh năm 1942, đúng lúc phong trào Đồng Khởi bùng nổ, anh Trần Quốc Thanh gia nhập lực lượng địa phương quân huyện đội Mỹ An (nay là huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp). Sau 3 năm, anh được điều động về Tiểu đoàn 502 Tỉnh đội Kiến Phong, năm 1969 được giao trọng trách Trưởng Văn phòng Tỉnh đội Kiến Phong cho đến ngày xuất ngũ, năm 1976. Trong suốt 16 năm quân ngũ, anh từng tham gia nhiều trận đánh nổi tiếng như: Trận đánh 37 tàu Mỹ trên sông Rạch Ruộng, đánh đồn Thống Linh, Kiến An…; 5 lần bị thương, bị cụt một chân và thương tích đầy mình, ra quân với tỷ lệ thương tật 81%.
Trở về đời thường, được UBND xã Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh cấp cho một công đất vừa làm đất ở, vừa làm vườn trồng các loại rau tự cung, tự cấp cho gia đình. Tuy là thương binh nặng nhưng anh vẫn tham gia công tác chính quyền xã ở bộ phận tư pháp. Để có thêm đất trồng các loại rau, anh tranh thủ ngoài giờ làm việc và ngày nghỉ trong tuần chở đất về lấp phần mương lộ phía trước nhà được thêm 1000m2. Sau một thời gian dành dụm, vợ chồng anh mua thêm được một công đất ruộng cạnh nhà để làm lúa tự túc lương thực.
Làm việc dân sự nhưng luôn giữ tác phong của một quân nhân, anh được cử đi học lớp sơ cấp pháp lý ở thị xã Sa Đéc; được 3 tháng, chuyển lên học trung cấp tại Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Để trang trải việc học tập và sinh hoạt, anh nhận làm công cắt, tỉa gai cho thợ uốn, tạo dáng cây kiểng ở làng hoa kiểng Thủ Đức vào ngày chủ nhật và các dịp lễ, tết. Vừa làm công, vừa chịu khó học, sau bốn tuần, anh quyết định mang khẩu phần ăn bữa trưa chủ nhật theo để tranh thủ giờ nghỉ trưa uốn thử mấy cây kiểng, ai ngờ bị ông chủ “bắt quả tang”, cho chuyển từ làm công tỉa gai tính ngày sang tỉa uốn tạo dáng tính sản phẩm, vì tay nghề của anh rất khéo lại cẩn thận không ai bằng. Giá mỗi cây ba hào, ngày chủ nhật, anh làm thông tầm từ 7 giờ đến 21-22 giờ được 50 cây, thu nhập 15 đồng; mỗi tháng được sáu chục đồng-tương đương 30 giạ lúa, không những bảo đảm cho việc học tập mà còn dành dụm gửi về cho vợ ở quê nhà.
 |
Vợ chồng anh Trần Quốc Thanh (bên trái) cùng khách tham quan bên Bộ huy chương (vàng, bạc, đồng) cho mai chiếu thủy. |
Ra trường, trở về làm việc ở bộ phận tư pháp xã Mỹ Hiệp được một thời gian, năm 1989 anh xin nghỉ việc, rồi một mình vào Nông trường Láng Biển thuê đất sản xuất với quyết tâm tạo lập tương lai cho con. Với bản tính cần cù, chăm chỉ, chỉ sau một thời gian ngắn, gia đình anh đã có của ăn, của để. Vào Láng Biển được 3 năm, bằng nghị lực của người lính, với quyết tâm học tập và làm theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu “Thương binh tàn nhưng không phế”, anh Trần Quốc Thanh trở thành một thương binh điển hình của tỉnh, được bình chọn tham dự Hội nghị các gia đình Thương binh-Liệt sĩ điển hình cả nước lần thứ II tổ chức tại thủ đô Hà Nội năm 1992.
Sau 4 năm toàn tâm cho công việc cải tạo đất, tích lũy kinh nghiệm, sưu tầm các tài liệu khoa học-kỹ thuật cho việc sản xuất lúa ở vùng Đồng Tháp Mười, 40 công đất anh thuê bắt đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao, cũng là lúc có chủ trương trả lại đất cho chủ cũ. Anh bần thần trở về Mỹ Hiệp với vợ con đúng như lúc ra đi. Nhưng nghịch cảnh chưa dừng lại ở đó, bởi toàn bộ 3.000m2 đất (một công được cấp, một công tự san lấp và một công mua lại của một thương binh cũng thuộc diện cấp) của gia đình anh đều phải trả lại cho chủ cũ. Đúng là tai họa kép. Không chốn nương thân, vợ chồng dắt díu 7 đứa con cùng nhau xuống thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười mưu sinh. Anh làm hợp đồng quản trang tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện từ năm 1993 đến năm 2000.
… Đến ông chủ hoa kiểng lớn nhất xứ Tháp Mười
Để bảo đảm cuộc sống, vợ chồng anh tận dụng phần đất chưa xây dựng trong khuôn viên nghĩa trang trồng các loại hoa như: Huệ, sứ, cúc, vạn thọ… bán tạo thêm thu nhập. Những kỹ năng tỉa, uốn cây cảnh từ thời theo học lớp trung cấp pháp lý ở Thủ Đức nay có dịp phát huy, được anh dùng để chăm sóc, tạo dáng cho các cây có sẵn ở nghĩa trang và nhận tỉa, uốn cây cảnh cho các nhà vườn trong vùng. Cứ mỗi lần làm xong phần việc của một hợp đồng, thay vì nhận tiền thì anh lại yêu cầu chủ vườn trả công cho anh bằng hiện vật, đó là các loại cây kiểng sẵn có của họ rồi đem về trồng. Chính nhờ việc trao đổi theo kiểu đó mà anh đã tạo cho mình một vườn kiểng đủ cỡ, đủ loại, làm tiền đề cho việc sản xuất và kinh doanh hoa kiểng sau này.
Sau 4 năm bấm chỉ, năm 1997, anh bắt đầu sản xuất và kinh doanh hoa kiểng các loại. Đến năm 2000, do phải mở rộng diện tích xây dựng để quy tập phần mộ của các liệt sĩ về nghĩa trang nên anh phải thuê mặt bằng ở sân vận động của huyện để hành nghề. Thuê nhân công vận chuyển cây về tập kết tại địa điểm mới, không chỉ có vợ con mà ngay cả bản thân anh cũng không ngờ số lượng hoa kiểng lại nhiều đến thế.
Trong quá trình sản xuất và kinh doanh hoa kiểng, anh Trần Quốc Thanh sớm nhận ra một lợi thế: Các loài hoa ở Tháp Mười thua xa Sa Đéc, Cao Lãnh và một số huyện, thị xã khác. Nhưng ở đây, các loại kiểng cổ lại phong phú hơn nhiều, có cây tuổi thọ hơn cả trăm năm. Người ngoài cuộc đánh giá nó chỉ là những thước củi không hơn, không kém, nhưng dưới mắt anh, giá trị của nó là tiền triệu, thậm chí hàng chục triệu nếu là những cây có thế cả cành lẫn rễ. Phương châm thương mại “Buôn có bạn, bán có phường” của người xưa được anh vận dụng vào việc sản xuất và kinh doanh hoa kiểng bằng việc thiết lập một mạng lưới bạn hàng mua và bán rất hiệu quả. Hệ thống tiêu thụ sản phẩm hoa kiểng của anh không chỉ ở Đồng Tháp, các tỉnh, thành phố miền Tây Nam Bộ, mà nó đã có mặt ở những công trình lớn như trụ sở, công viên tại Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Đông, miền Trung, Hà Nội, Phnôm Pênh (Cam-pu-chia)… Có những hợp đồng lên đến cả tỷ bạc. Tất cả các sản phẩm hoa kiểng của anh đều có bảo hành; nếu cần tư vấn, anh sẵn sàng làm “chuyên gia” bằng tất cả nhiệt huyết của mình. Để tránh trường hợp “cháy túi” không đủ hàng cung cấp cho các hợp đồng lớn, anh xây dựng một mạng lưới sản xuất cây cảnh cung cấp cho cơ sở bằng cách cung cấp cây giống và hướng dẫn kỹ thuật cho các hộ nông dân trồng ở những vùng đất sản xuất lúa kém hiệu quả: Mỗi công đất trồng 500 cây, sau hai năm cơ sở bao tiêu toàn bộ với giá 250.000 đồng một cây. Hàng trăm hộ nông dân ở Tháp Mười đã trở nên khá giả từ mô hình hợp tác này.
Sau 14 năm nuôi chí làm giàu, từ chỗ cả gia đình phải "sống nhờ đồng đội" tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Tháp Mười, nay vợ chồng anh đã là chủ nhân của một vườn hoa kiểng tại xã Mỹ Đông rộng tới 5.000m2 với 20 loại mai và 20 chủng loại quý hiếm khác như: Cần Thăng, Nguyệt quế, Thiên tuế, Vạn tuế, Bằng lăng, Ngọa tùng, Vạn niên tùng, Sơn tùng, Kim thủy tùng, Sanh, Cừa, Lộc vừng, Cau kiểng... trị giá cả chục tỷ đồng và hai căn nhà mặt tiền thông nhau được dùng làm đại lý cho hãng cà phê Trung Nguyên tại địa chỉ 43D, đường Hùng Vương, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Dẫn tôi đi tham quan vườn hoa kiểng, dừng lại bên cây Cần Thăng đoạt Huy chương vàng tại Hội chợ Sinh vật cảnh Thành phố Hồ Chí Minh năm 2005 và bộ huy chương Vàng-Bạc-Đồng cho Mai chiếu thủy tại Hội chợ Sinh vật cảnh mở rộng tỉnh Vĩnh Long năm 2008, anh giải thích: Đấy! Chú coi, để có được những cây kiểng vừa có thế cả cành lẫn gốc như thế này phải mất từ 4 đến 5 năm chăm chút. Nhỏ nhưng lại cao giá, bé hạt tiêu đấy chú ạ!
Và tấm lòng của một thương binh nặng
Là người đã từng đi qua cái nghèo, cái đói nên anh Trần Quốc Thanh luôn quan tâm đến các hộ nghèo, đặc biệt là các gia đình chính sách. Ngoài tạo công ăn, việc làm, có thu nhập ổn định cho hàng trăm hộ nông dân làm "vệ tinh" cung cấp cây cảnh cho cơ sở, từ năm 2008 đến nay, anh Trần Quốc Thanh đã chủ động tham mưu cho Sở Lao động-Thương binh và Xã hội cùng chính quyền địa phương mở được 26 lớp dạy nghề: Chăm sóc-cắt-uốn-tỉa cây cảnh cho 650 học viên trong và ngoài tỉnh (huyện Tháp Mười 12 lớp, huyện Lấp Vò 8 lớp, huyện Chợ Mới của tỉnh An Giang 6 lớp). Điều đáng mừng là sau khóa học, các học viên tốt nghiệp được cấp chứng chỉ nghề, ai cũng có việc làm ổn định quanh năm. Hương thơm lan tỏa, tiếng lành đồn xa, không chỉ có trong tỉnh và miền Tây Nam Bộ mà các tổ chức, doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu và Prey Veng (Cam-pu-chia) đều tìm anh để ký hợp đồng lao động với số học viên do anh đào tạo, lương mỗi tháng dao động từ 6 đến 7 triệu đồng, tùy theo kỹ năng tay nghề.
Người xưa nói: Ruộng bề bề không bằng cái nghề trong tay! Bởi, của như núi ăn riết rồi cũng hết, có được cái nghề trong tay thì sống cả đời. Ngẫm lại mới thấy cái tâm, cái ý của anh Trần Quốc Thanh thật sâu xa, vì "của cho không bằng cách cho". Việc anh mở lớp dạy nghề miễn phí cho bà con nghèo, bình dị nhưng cũng thật cao quý biết chừng nào!
NGUYỄN TRỌNG QUẾ