Sục sôi tòng quân

Đã nhiều hơn cái tuổi “xưa nay hiếm”, nhưng khi trò chuyện và tiếp xúc, tôi cảm thấy ông vẫn minh mẫn, giữ đúng tác phong nhanh nhẹn của người lính. Ông kể, vào năm 1965, khí thế tòng quân lên đường vào Nam đánh Mỹ sục sôi lắm. Thời điểm ấy, ông đang theo học tại Trường Hàn Thuyên của tỉnh Hà Bắc cũ, một ngôi trường nổi tiếng với nhiều thế hệ học sinh giỏi. Nhiều học sinh nam của trường viết đơn tình nguyện nhập ngũ để được đi vào miền Nam chiến đấu, thực hiện chí làm trai, “đền nợ nước, trả thù nhà”. Ông cũng viết đơn, nhưng chưa được xét tuyển. Ông nhớ rõ, ngày 29-5-1965, lúc 16 giờ, sau khi nộp bài thi môn Lý, môn thi cuối cùng của kỳ thi tốt nghiệp phổ thông thì ông nhận được tin do Tỉnh đội Hà Bắc báo về rằng, ông có tên trong danh sách tình nguyện tòng quân. Ngày ấy, việc này là niềm tự hào lớn lao nhất của nam thanh niên. Ngay hôm sau, ngày 30-5-1965, ông chia tay quê hương, bà con thân thiết lên đường nhập ngũ...

Ông Vũ Văn Kim, cựu tù Phú Quốc kể về gương chiến đấu của liệt sĩ Nguyễn Đình Xô trong Nhà tù Phú Quốc tại hội thảo ngày 31-5-2016, ở Tiên Du, Bắc Ninh. Ảnh do nhân vật cung cấp 

Ông kể tiếp trong cảm xúc: “Tôi không thể quên được thời khắc ngày 31-5-1965 ấy”. Buổi sáng mùa hè oi ả bởi tiếng ve sục sôi và hoa phượng đỏ rực trời, lễ tiễn gần 200 học sinh lên đường tòng quân được nhà trường tổ chức nghiêm trang, trọng thể. Ông tự hứa, sẽ sống, chiến đấu và sẵn sàng hy sinh để xứng đáng với niềm tin của thầy cô, các bạn, xứng đáng với bông hồng cài trước ngực cùng vật kỷ niệm là bài thơ “Miền Nam” của Tố Hữu được các bạn gái và nhà trường trao tặng. Buổi trưa hôm ấy, UBND thị xã Bắc Ninh tổ chức bữa cơm chiêu đãi thanh niên nhập ngũ. Đến buổi chiều, khi đến Trường Đảng Nguyễn Văn Cừ để giao quân cho Tỉnh đội thì ông Kim và 5 người nữa bị cơ quan gọi lên “hành” tới ba lần chỉ vì lý do hết sức đơn giản. Họ phân tích, gia đình những người được gọi lên chỉ có duy nhất một con trai, lại neo đơn. Nếu đi chiến đấu thì ở nhà sẽ hết sức khó khăn. Họ bảo các ông về và hẹn để đợt sau sẽ đưa vào danh sách tòng quân… Họ nói mãi mà chẳng ai chịu rút lui. Với nhiệt huyết tuổi trẻ cùng quyết tâm cao, sau nhiều lần hứa hẹn, ông mới được các anh trong Tỉnh đội nhất trí giải quyết theo đúng nguyện vọng. Đến 22 giờ ngày hôm ấy, ông về tới đơn vị để huấn luyện trở thành Bộ đội Cụ Hồ. Ông được biên chế và huấn luyện tại Tiểu đoàn Sơn pháo 95, Sư đoàn 351 và chuẩn bị đi B.

Sau khi hoàn thành chương trình huấn luyện sơn pháo 75 thì vào tháng 9-1965, ông cùng 60 đồng chí khác được trung đoàn lựa chọn đi nhận nhiệm vụ đặc biệt, huấn luyện đặc công tại Vạn Khuê, Lương Sơn, Hòa Bình rồi xuống Ba Thá-Miếu Môn.

Ước mơ được sát cánh cùng đồng đội trên chiến trường chiến đấu với bọn Mỹ xâm lược đã thành sự thật. Sau thời gian huấn luyện kỹ thuật chuyên ngành đặc công, ông cùng đồng đội hành quân vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu. Sau một thời gian về Đoàn Đặc công 555 thuộc D10 Tỉnh đội Bình Định làm quen và thích nghi với môi trường bom đạn, với các hình thức tác chiến chưa lâu thì một biến cố xảy ra làm thay đổi mục tiêu phấn đấu của ông. Số là, đêm 8-10-1966, khi đi điều nghiên, trinh sát, tổ 3 người của ông bị địch bao vây. Một đồng chí hy sinh. Hết đạn, lại bị thương vì sức ép, đến 9 giờ ngày 9-10, khi mở mắt thì ông mới biết cả hai người bị địch bắt. Chúng giam ông tại Phù Cát (Bình Định) rồi đưa đi các trại giam: Plei-cu, Cần Thơ. Ngày 15-10-1967, chúng đưa ông ra đảo Phú Quốc. Từ đây, cuộc chiến đấu của ông chuyển sang trang mới, dài dằng dặc cùng với những đòn roi và các hình thức tra tấn vô cùng dã man của những kẻ "mặt người dạ thú".

Bất khuất trước họng súng thù

Suốt thời gian ở nơi “địa ngục trần gian”, ông đã chứng kiến nhiều đồng đội vì đấu tranh mà bị những đòn tra tấn cực kỳ dã man của bọn cai ngục. Bản thân ông cũng không ít lần bị nhốt trong chuồng cọp, bị uống nước xà phòng… bị phạt vạ… Một trong những kỷ niệm mà ông không bao giờ quên được mỗi khi nhắc đến những năm tháng nằm tù.

Khoảng 7 giờ sáng ngày 30-5-1970, giữa mùa hè nắng sém cỏ tranh, rộp mái tôn, sau 4 hôm bị địch phạt vạ cởi trần ngồi phơi nắng vì bị vu là vi phạm nội quy của trại, da trên người hơn 300 anh em tù binh bị bong tróc, lúc đỏ ửng, lúc thâm tái… Bỗng kẻng điểm danh vang lên dồn dập. Theo hiệu lệnh này, tất cả tù binh phải có mặt ở trước sân để điểm danh, không kể già, ốm yếu, bị thương. Lúc này, tên trật tự Cường, Gai, Đàm và một vài tên khác do địch dựng lên lăm lăm củ mây, ba trắc, roi cá đuối trong tay đánh túi bụi vào chân, vào bụng, vào mặt mọi người. Chú Thám đã ngoài 70 tuổi bị tù từ năm 1962, sức đã yếu cũng hòa vào trong dòng người ấy. Các tên trật tự thi nhau vụt củ mây, ba trắc, roi cá đuối vào người, vào mặt chú Thám và số đông anh em thương binh, bệnh binh đi cùng. Thấy cảnh ấy, không thể ngồi yên, ngót một nghìn con người đã đồng thanh kết án tử hình hai tên trật tự đắc lực nhất là Cường và Gai. Tên Đàm tội nhẹ hơn bị bẻ gãy chân để cảnh cáo. Bản thi hành án được tiến hành tại chỗ trước họng súng của tên trưởng khu và tiểu đoàn quân cảnh.

Thế là một cuộc đàn áp đẫm máu bắt đầu. Tên trưởng khu dùng côn đui bắn thẳng vào chỗ anh em tù tập trung, hai, ba người ngã xuống. Tiếp sau mấy tiếng súng lệnh, đại liên, cạc-bin, ga-răng của bọn quân cảnh ác ôn được đà thi nhau cười trên vũng máu anh em tù, lựu đạn cay mù mịt. Đại liên lúc đầu còn bắn chỉ thiên, 15 phút sau chúng hạ tầm ngang ngực bắn xối xả. Tiếng hô đả đảo bọn sát nhân tàn sát tù yêu nước lúc dội lên, lúc nín lặng vì phải đưa xác anh em ra trước mặt kẻ địch. Hải (Nghệ An), Kha (Thái Bình) sát cạnh ông bị trúng đạn, ngã lăn ra đất, xung quanh máu thịt bắn tung tóe. Khoảng 30 phút sau khi nổ súng, số xác chết được các tổ xung kích quyết tử đưa ra phía trước quá nhiều, máu me lênh láng, bọn địch thấy vậy phải ngừng nổ súng. Trong sân la liệt thương binh, tử sĩ. Tiếng rên, tiếng hô đả đảo, nguyền rủa nghe chỉ còn rõ trong cổ họng của những anh em mất máu đuối sức, hơi đã khản. Ngay lúc ngừng bắn, lệnh của Đảng ủy nhà tù, đưa tất cả thương binh, tử sĩ vào nhà, xé quần, xé áo băng bó tạm cho nhau. Một vài người còn đi được kiên quyết không cho băng, đòi anh em cho ra trước trại kéo phổi, lôi ruột ra tố cáo hành động đê hèn của kẻ địch. Nhiều anh em bị thương kiên quyết không rời vị trí nếu địch chưa chịu nhượng bộ, chấp nhận các yêu cầu của tù binh.

Sau khi ngớt tiếng súng, khoảng 30 chiếc xe Jeep với một đại tá Mỹ, một đại tá ngụy cùng đông đủ bọn chúa đảo đến, xin gặp đại diện ta để giải quyết. Ta yêu cầu chúng phải đưa mấy chiếc trực thăng đến chở số thương binh nặng về đất liền để cấp cứu. Tuy chỉ là lời hứa suông không trọng lượng, nhưng bọn chúng đã phải thừa nhận toàn bộ tội ác trước vong linh của những người đã khuất và ngót 2.000 tù binh hai trại C4 và D4. Tổng cộng có 61 người hy sinh và bị thương trong vụ đàn áp đẫm máu sáng 30-5 ấy. Cái được trong buổi đấu tranh ấy là bẻ gãy chính sách dùng tù trị tù vô cùng thâm độc mà địch vừa áp dụng thí điểm tại Trại D4.

Cuối câu chuyện, ông Kim chia sẻ: “Dù hy sinh, dù đổ nhiều máu, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy phấn khởi vì đã giành được tự do trong tường rào, dây thép gai của địch, giành được tự do mà không có lấy tấc thép trong tay, trước những tên lang sói được trang bị vũ khí tối tân”.

Ông kể thêm, sự kiện đấu tranh đẫm máu ngày 30-5-1970 ấy đã đánh đổ toàn bộ mục tiêu trong chiến dịch “Chuyển hướng tư tưởng tù binh” của bọn Mỹ, ngụy. Trước khi thực hiện chiến dịch này, chúng đã tiến hành phân loại tù binh, giam riêng tù binh miền Bắc và miền Nam. Đối tượng hạ sĩ quan, sĩ quan… cũng bị giam riêng. Một số người không chịu được đã chấp nhận chiêu hồi, khai ra tổ chức đoàn thể và được địch đưa vào một số trại dưới cái tên mỹ miều là “tân sinh họa”. Nguy hiểm hơn cả là địch áp dụng kế sách “lấy tù trị tù”. Nhưng chúng đã hoàn toàn thất bại trước ý chí thép của những chiến sĩ tù binh cộng sản, cho dù chiến thắng ấy phải đổi bằng xương máu và tính mạng của rất nhiều đồng đội.

MẠNH THẮNG (ghi)