Cách đây mấy năm, lúc còn sống, mong muốn duy nhất của mẹ chồng chị Trần Thị Kim Chính (thôn Quần Liêu, xã Nghĩa Sơn, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định) là tìm được phần mộ đứa con yêu dấu của mình. Chiều lòng mẹ già và cũng là ước nguyện của mình, chị không quản đường xa đi tìm chồng tận miền Đông Nam bộ xa xôi. Hơn mười năm… những tưởng có thể đưa hài cốt chồng về để thỏa lòng mẹ. Nhưng không kịp… mẹ đã ra đi, còn chị thì vẫn hy vọng.

Chuyện kể rằng...

Cái thời chiến tranh vẫn còn ác liệt, có một cán bộ về hoạt động tại một gia đình nông dân ở thôn Quần Liêu. Một đêm, dưới hầm đang họp thì phía trên, gia đình ấy có người vợ sinh hạ một cô con gái. Cô bé được người cán bộ đặt tên là Trần Thị Trang Chính (Trang là sang trang mới và Chính là chính nghĩa). Sau này đi học, tên Trang Chính được thay bằng Kim Chính. Năm 1964, cô xây dựng gia đình với anh Nguyễn Xuân Hưởng. Hạnh phúc đôi vợ chồng trẻ đang nồng thì tháng 4-1965 anh lên đường nhập ngũ. Khi đó con gái họ vừa có mặt trên thế gian này.

Ngày tiễn anh lên đường cùng với hơn 600 thanh niên khác, chị Chính hứa sẽ thay anh nuôi con và phụng dưỡng bố mẹ chu toàn. Anh ôm vợ vào lòng, nghẹn ngào hẹn ngày cả gia đình đoàn tụ. Nhưng niềm hy vọng ngày đoàn tụ vụt tắt khi chị nhận được giấy báo tử của anh một ngày cuối năm 1971. Khổ đau và tuyệt vọng rồi cũng qua.Mẹ chồng thương con dâu hiếu thảo, sớm chịu cảnh góa bụa nên nhiều lần khuyên chị đi bước nữa, bà con hàng xóm cũng mai mối nhưng chị vẫn một mực ở vậy nuôi con và phụng dưỡng bố mẹ chồng. Cả xã mấy chục người đi chỉ còn hai người trở về, họ cũng không biết anh hy sinh nơi nào… Cứ rảnh rỗi là chị lại sang các xã lân cận hỏi về phần mộ của chồng. Trong vòng mấy năm, chị hỏi gần hết cả huyện. Đến một hôm may mắn mỉm cười, khi có một người ở xã bên biết tin anh. Lúc chị đến, anh hỏi:

- Em là vợ Hưởng phải không?

Chị gật đầu:

- Em hỏi thăm nhưng không ai biết.

- Anh có biết Hưởng, đó là lần anh đến bệnh viện Bắc Sơn thăm cậu học trò và gặp Hưởng. Hưởng mất ở đó em ạ!

Từ thông tin ngắn ngủi ấy, chị quyết định sẽ đi tìm anh nhưng vì hoàn cảnh gia đình vất vả nên đành tạm gác lại. Những lúc thấy chị vui với công việc hiện tại, người thân ngỡ chị đã quên quá khứ. Nhưng đó cũng là lúc chị làm tất cả để sau này có thể thu xếp đi tìm phần mộ chồng.

Những dấu chân trên chặng đường dài

Anh bộ đội xã bên bảo rằng: Hưởng mất trong bệnh viện Bắc Sơn, vùng đất giáp ranh giữa Cam-pu-chia và huyện Phước Long của tỉnh Bình Phước. Cán bộ lãnh đạo cũ đã về hưu, còn lãnh đạo mới thì anh không biết. Nhưng anh hứa sẽ tìm người viết thư cho chỉ huy đơn vị cũ để chị đi tìm.

Tháng 10-1988, chị khăn gói vào Thành phố Hồ Chí Minh và cầm bức thư gửi chỉ huy Trung đoàn 141- Sư đoàn 7.

Nhưng khu rừng năm xưa giờ giao cho địa phương quản lý. Có thể những khu mộ trong rừng sau giải phóng đã được đưa vào nghĩa trang. Anh chỉ huy Trung đoàn cho người đưa chị đến nghĩa trang Phước Long. Chị xem danh sách không có tên chồng. Không nản lòng, chị tiếp tục đến nghĩa trang Bình Long, nghĩa trang Lộc Ninh, nghĩa trang Đồng Xoài, lên nghĩa trang Bù Đăng, về nghĩa trang Bù Đốp… tất cả đều không có tên anh. Mỗi nơi chị dừng lại một tuần, thắp hương cho các liệt sĩ và cầu mong linh hồn các anh phù hộ. Đến đâu chị cũng hỏi về đồi Bắc Sơn năm xưa nhưng không ai biết. Nhiều người dân địa phương nói với chị: “Từ ngày giải phóng, chị là người đầu tiên hỏi về Bắc Sơn”. Các anh trong đơn vị bảo: “Đấy là một căn cứ bí mật nên ít người biết”.

Chị trở lại Bù Gia Mập, người dân địa phương cho biết trước đây có một người từng làm giao liên, có thể anh ấy biết. Chị tìm đến nhà, vợ anh ấy nói:

- Chồng em đang đi làm ở Lộc Ninh, phải ba bốn tháng nữa mới về.

Bà Trần Thị Kim Chính đang xếp lại tập hồ sơ mộ chí của các liệt sĩ tại khu vực đồi Bắc Sơn.

Không có địa chỉ nên chị xin ở lại nhà anh Long (chủ tịch xã Bù Gia Mập) để chờ người giao liên năm xưa. Trong thời gian chờ đợi, chị hái tiêu giúp gia đình anh. Người dân địa phương biết chuyện cũng thuê chị với tiền công 20 nghìn một ngày. Ba tháng sau, người giao liên ấy trở về, ông là BaRui - người dân tộc Xtiêng. Ông bảo có biết đồi Bắc Sơn vì ngày trước từng dẫn các đoàn làm phim vào phục vụ bộ đội. Chị mừng như bắt được vàng, về xã trình bày. Mọi người phát hiện đồi Bắc Sơn xưa nay chính là rừng cấm Quốc gia thuộc sự quản lý của Đồn biên phòng 785, muốn vào đó phải có giấy của Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Chị về đại diện của Bộ tư lệnh Biên phòng ở TP Hồ Chí Minh xin. Cầm tờ giấy phép trở lại, anh đồn trưởng cử hai chiến sĩ, xã cho hai dân quân cùng với ông già giao liên vào rừng tìm dấu tích năm xưa.

Anh ở đâu giữa mênh mông rừng thẳm?

Cuộc hành trình của mười năm đầu là cả một quãng vất vả mà sau này nghĩ lại chị cũng không tưởng tượng được. Vì tưởng gần, nên lần đầu vào đồi Bắc Sơn chỉ chuẩn bị thức ăn có một ngày, sau 6 giờ đồng hồ đi bộ vào đến nơi thì trời vừa tối mà đoạn đường dọc biên giới còn thăm thẳm xa. Mọi người đành ngủ lại giữa rừng, sáng hôm sau đi bộ trở ra. Nghỉ một tuần, chờ biên phòng "xếp lịch" đi tiếp.

Lần thứ hai, chị chuẩn bị lương thực và đồ dùng cho 5 ngày. Cả đoàn vừa đi vừa mở đường, băng qua những con suối cạn dài, cây lá chằng chịt, chống chọi với muỗi và vắt, ngày tìm, đêm mắc võng ngủ, và bất ngờ nhìn thấy những hầm chữ Y, hầm chữ A, có cả giao thông hào… Mọi người đánh dấu rồi trở ra, dò tìm mãi mới biết, giữa đồi Bắc Sơn là hầm giải phẫu quân y, gần đồi 19. Đứng ở chân đồi Quân y Bắc Sơn nhìn về phía Bắc Cam-pu-chia thì đồi 19 nằm bên phải (nay là đồi 319).

Lần xuất phát thứ ba đơn giản hơn, chỉ sau hơn hai ngày cả đoàn đến được đồn Bắc Sơn, hơn 6 giờ lên đến giữa quả đồi. Quá trưa, cả đoàn nghỉ ăn cơm, một con bướm đỗ trên mũ chị. Người dẫn đường bảo:

- Chúng ta hãy đi theo hướng con bướm bay.

Mọi người đi theo, phát hiện ở đây đặt nhiều phiến đá phẳng xếp vuông bốn góc. Nhìn lên mặt phẳng của sườn đồi thấy rất nhiều những tấm đá phẳng được xếp rất lạ. Đấy là một cách đánh dấu... Linh tính mách bảo chị "Đây là nơi các anh đang yên nghỉ".

Đi quanh đó chị phát hiện một tấm bia đá có ghi chữ, nhưng đất đá và rêu phủ kín, chị vặt lá cây rừng lau sạch bùn đất, những dòng chữ viết tắt hiện lên. Chị ghi lại... Trở ra chị gửi những dòng chữ ấy đi xác minh, thì ra đó là nơi yên nghỉ của liệt sĩ Nguyễn Văn Tuân quê ở Quảng Thủy, Quảng Trạch, Quảng Bình. Chị thông báo cho gia đình liệt sĩ vào đưa anh Tuân ra.

"Em sẽ cùng anh về với con và các cháu..."

Cứ vào, ra như vậy không biết bao nhiêu lần, nhiều dấu tích của các liệt sĩ khác đã được tìm thấy mà anh vẫn ở đâu giữa chốn rừng thẳm? Những mùa khô chị thuê người vào rừng, còn mùa mưa chị lại làm thuê và dò hỏi thông tin. Rồi chị biết mỗi đơn vị có một nghĩa trang và có cả sơ đồ chôn cất các liệt sĩ. Sau bao nhiêu năm sơ đồ đó vẫn còn được lưu giữ tại địa phương, nhưng khu vực rừng sâu, đi vào khó khăn nên chưa đưa các anh ra được.

Tháng 7-1998, chị trở ra Bắc mang theo toàn bộ sơ đồ về các phần mộ liệt sĩ đến Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị trình báo. Cục Chính sách đã lưu lại, cử cán bộ vào bàn giao cho Quân khu 7. Tháng 9-1999 chị lại trở vào Phước Long đi tìm tiếp. Và lần thứ hai vào Bắc Sơn chị phát hiện được 587 ngôi mộ liệt sĩ. Chị viết thư gửi về quê các liệt sĩ có địa chỉ, đồng thời báo cho Cục Chính sách và các cơ quan chức năng biết.

Chờ ở Phước Long ba năm, mà vẫn không có tin tức gì về chồng mình. Chị lại ra Bắc, mang theo danh sách rất nhiều liệt sĩ quê Nam Định. Chị lần theo địa chỉ gửi về quê hương họ.

Từ bấy đến nay, chị vẫn mong có một tin tức mới về chồng mà chưa thấy. Mẹ chồng chị không chờ được con, đã ra đi.

Vĩ thanh

Vậy là cuộc hành trình tìm mộ chồng của chị cả hai đợt tròn 13 năm, nhưng tin tức về anh vẫn "bặt vô âm tín". Với nhiều năm sống trên mảnh đất chồng mình đã từng chiến đấu, công tác và hy sinh, có lần chị tự thốt lên rằng: "Em chưa về vì em chưa tìm được anh. Bao giờ tìm được anh em sẽ trở về cùng anh. Linh hồn anh có linh thiêng thì phù hộ cho em".

Và kỳ lạ thay, mấy mùa sống giữa chốn rừng thiêng nước độc, lặn lội qua bao chặng đường, rồi đi làm thuê làm mướn suốt ngày mà chị chưa một lần đau ốm, đến đâu cũng được mọi người giúp đỡ tận tình.Mỗi lần chị vào rừng tìm chồng là anh đồn trưởng đồn biên phòng lại ái ngại nói: “Chị cứ đi mãi trong này thì ốm mất”.

Ngôi nhà nhỏ tựa mình vào cầu Quần Liêu ám ảnh tôi bởi hình ảnh một bà già sắp bước vào tuổi 70 vẫn ngày đêm vò võ một mình và mang niềm hy vọng mong manh đưa chồng về với quê hương. Đó là hình ảnh đẹp về đức hy sinh, lòng thủy chung son sắt.Suốt 13 năm chị cần mẫn làm thuê khắp nơi để có tiền thuê người vào rừng tìm mộ chồng. Dù chưa tìm được anh, nhưng chị đã đem lại niềm vui cho nhiều gia đình, nhất là tấm sơ đồ có đánh dấu 587 ngôi mộ liệt sĩ hy sinh tại khu vực Bệnh viện Bắc Sơn năm nào.

Biết câu chuyện “Mười ba năm tìm chồng” phóng viên Báo QĐND đã trao đổi với Phòng Hậu phương, Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị những chi tiết có liên quan và được giới thiệu đến Đại tá Đỗ Minh Nguyệt, nguyên Trưởng phòng Thương binh - Liệt sĩ (đã nghỉ hưu) người trực tiếp giải quyết những thông tin về khu mộ liệt sĩ tập thể này. Đồng chí Nguyệt cho biết: Khi nhận được thông tin khu mộ liệt sĩ ở “Đồi Quân y Bắc Sơn” thuộc địa bàn huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước, đồng chí đã trực tiếp vào xác minh nhiều lần và bàn giao danh sách liệt sĩ cho Quân khu 7, vì đó là Trạm xá Trung đoàn Bắc Sơn (trung đoàn độc lập trực thuộc Bộ Quốc phòng) đã giải thể, đóng trên địa bàn Quân khu 7.

Quân khu 7 đã phối hợp với các đơn vị vào cất bốc hài cốt liệt sĩ, đưa về mai táng ở các nghĩa trang liệt sĩ. Tuy nhiên, do đây là địa bàn phức tạp, chiến tranh rất ác liệt, bộ đội ta thương vong, hy sinh nhiều, trạm xá lại đón nhận rất nhiều thương binh nặng của nhiều đơn vị nhập viện trong điều kiện thiếu giấy tờ, nên nhiều trường hợp thiếu sơ đồ mộ chí (nếu có thì cũng không thật chính xác). Hiện nay, việc xác minh danh tính của từng liệt sĩ là rất khó khăn.

Bài và ảnh: VÕ THỊ THÚY