QĐND - Tiếp tôi trong căn gác nhỏ yên tĩnh trên đường Lạc Chính ven hồ Trúc Bạch, cựu chiến binh của Tiểu đoàn 8 Pháo binh (Sư đoàn 310, Quân khu 7) năm xưa, ông Chu Văn Thịnh nhớ lại nhiều cảm xúc những ngày đầu quân ngũ. Đó là đợt tuyển quân cuối năm 1969, Chu Văn Thịnh vừa tốt nghiệp cấp ba và có giấy báo nhập học Trường Đại học Bách khoa. Năm đó, không khí xung phong lên đường tòng quân giết giặc rộn rã khắp hai miền, chàng trai Chu Văn Thịnh cùng nhiều lớp thanh niên Thủ đô tự nguyện xếp bút nghiên lên đường đánh giặc. Lứa chiến sĩ mới này được chuyển vào tập kết ở Nho Quan (Ninh Bình), vừa đi vừa học chiến thuật, vừa hành quân, vừa huấn luyện. Bốn tháng trời huấn luyện ròng rã, vượt qua khắc nghiệt của thời tiết, của địa hình, cuối cùng đã tôi luyện những người trai Hà Nội trở nên rắn rỏi, háo hức đợi ngày vào chiến trường.
 |
Cựu chiến binh Chu Văn Thịnh (thứ hai, từ trái sang) trong ngày gặp mặt đồng đội cũ. Ảnh: Đỗ Trung. |
Chu Văn Thịnh nhớ lại: “Ngày 19-2-1970, đúng ngày 14 Tết Canh Tuất, cả đơn vị tôi nhận lệnh di chuyển. Trời đầu Xuân nhưng còn giá buốt, chúng tôi được tăng bo một số đoạn bằng tàu hỏa, rồi đi qua đường liên thôn liên xã, đến ngày 24-2, cả đơn vị đã vào đến Cự Nẫm, Bố Trạch, Quảng Bình”. Từ đây, cả đơn vị bắt đầu bám theo mạng lưới Đường 559, xẻ dọc dãy Trường Sơn. Không khí Tết vẫn còn quanh quất ở một vài thôn, làng nghèo dọc đường hành quân khiến nhiều anh lính trẻ nhớ nhà. Song, ai cũng xác định được nhiệm vụ “lính pháo binh chân đồng, vai sắt” là lực lượng hỏa lực mạnh chi viện, chia lửa cho miền Nam ruột thịt. Trong lồng ngực ai cũng như "có lửa" khiến đường hành quân xa ngắn lại. Có mấy mốc thời gian mà đến nay ông Thịnh vẫn còn nhớ, đó là ngày 14-3-1970 vượt sông Sê Pôn, ngày 30-3 vượt sông Sê Công, ngày 6-4 vượt sông Sê Ka Mán bằng thuyền… Cuộc hành quân kéo dài 50 ngày, đến ngày 9-4-1970, đơn vị đã đặt chân vào chiến trường Tây Nguyên. Cựu chiến binh Chu Văn Thịnh bùi ngùi: “Suốt mùa xuân năm 1970, chúng tôi hành quân vào chiến trường. Đường Trường Sơn đã tôi luyện thêm người chiến sĩ, nhưng "rừng thiêng nước độc" cũng buộc nhiều người lỗi hẹn với chiến trường. Cái chết do bị pháo bắn, bom rơi không nhiều bằng sương rừng gió núi”.
Chiến đấu 6 năm tại chiến trường miền Đông Nam Bộ, chiến sĩ Chu Văn Thịnh có nhiều kỷ niệm với mảnh đất này. Năm 2006, ông trở lại thăm chiến trường xưa sau hơn 30 năm xa cách. Thật xúc động, người dân vẫn nhận ra ông như thuở nào. Đáng nhớ, có lần vào thăm gia đình má Bảy và chị Sáu ở kênh Tè (Cai Lậy, Tiền Giang), má và chị vẫn nhắc được tên từng người trong đơn vị. Má Bảy còn dẫn tay chỉ cho ông Chu Văn Thịnh xem vị trí căn hầm má và các chị nuôi giấu anh em trong những ngày chiến đấu ác liệt.
Tấm lòng người dân dành cho bộ đội luôn được ông Chu Văn Thịnh ghi sâu trong lòng. “Đức hy sinh của người dân Việt Nam ta cho cách mạng thật lớn lao không gì so sánh nổi. Tôi vẫn ngẫm nghĩ hoài và tự trả lời: Giặc có hùng mạnh đến mấy cũng phải thua thôi, bởi ta có lòng dân như thế-cựu chiến binh Chu Văn Thịnh chia sẻ, tôi vẫn biết ơn mùa xuân ấy tôi trở thành chiến sĩ”. Ông Chu Văn Thịnh sau khi xuất ngũ, chuyển ngành, phấn đấu lên cương vị Phó cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp). Giờ trở về đời thường, ông đam mê với việc đi tìm cái đẹp trong chữ Việt và hỗ trợ pháp lý cho người nghèo. Gặp những cựu chiến binh như ông Chu Văn Thịnh, ta thêm quý, thêm yêu Bộ đội Cụ Hồ.
LÊ ĐÔNG HÀ