QĐND - 577 là số chuyến vận chuyển vũ khí, hàng hóa, người vào chiến trường miền Nam của Đoàn tàu không số (tính từ năm 1961 đến năm 1975) với hơn 55.712 tấn vũ khí, hàng hóa, đưa đón hàng nghìn lượt người. Lê Na (St)

Chính xác là 11 năm, từ năm 1964 đến tháng 4-1975, trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Đại tá Trần Phong, nguyên Phó cục trưởng Cục Hậu cần, Quân chủng Hải quân nói rằng, đó là khoảng thời gian đáng nhớ nhất trong đời quân ngũ của ông.

Chuyện kể từ những tấm bản đồ

Những ngày này Đại tá Trần Phong khá bận rộn. Hết các cuộc gặp mặt truyền thống, đi nói chuyện, giao lưu lại đến các cuộc tọa đàm, hội thảo. Tất cả đều xoay quanh chủ đề về Đường Hồ Chí Minh trên biển và những chuyến tàu không số. Là người làm công tác tham mưu, từ vị trí trợ lý đến quyền Tham mưu trưởng Đoàn 125 trong nhiều năm, lại được đào tạo bài bản từ Trung Quốc, Đại tá Trần Phong thực sự là một pho tư liệu sống về Đường Hồ Chí Minh trên biển. Hành trình của mỗi chuyến đi, kế hoạch tác chiến trong từng thời điểm... của các chuyến tàu không số đều mang đậm dấu ấn của những người làm công tác tham mưu, trong đó có vai trò quan trọng của Trần Phong, một trong những người được giao trực tiếp soạn thảo kế hoạch trình cấp trên. Khi chúng tôi hỏi chuyện, ông tươi cười:

- Bàn về công tác tham mưu, không thể nói suông được mà phải sử dụng đến cái này.

Nói rồi, ông lấy ra 3 tấm bản đồ. Đây là những tấm bản đồ được ông sử dụng trong các giai đoạn khác nhau, tương ứng với sự thay đổi đường hướng chiến lược và ý đồ chiến thuật hoạt động của Đoàn tàu không số theo chỉ đạo từ Trung ương đến Bộ tư lệnh Hải quân. “Tôi đã tặng cho Bảo tàng Hải quân một số bản, còn đây là những bản tôi giữ làm kỷ niệm” - Ông nói.

Đại tá Trần Phong bên những tấm bản đồ về Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Những tấm bản đồ qua thời gian đã ố vàng nhưng vẫn còn nguyên vẹn hình dáng và cả những ký hiệu, đường nét bằng mực đỏ mà ông cùng các đồng chí tham mưu đã vạch lên đó, xác định đường đi cho các chuyến tàu không số. Trước lúc được cấp trên điều về làm cán bộ tham mưu, Trần Phong đã từng là Thuyền trưởng con tàu mang bí số 5, thực hiện hai chuyến vượt biển chở vũ khí vào Nam an toàn. Chuyến thứ nhất cập bến ở Bến Tre vào tháng 7-1963 và chuyến thứ hai đến Cà Mau cuối tháng 11-1963. Sau chuyến đi này, ông được điều về làm Trợ lý Tham mưu tác chiến chiến trường, thuộc Ban Tác huấn và đã tham gia đi biển làm nhiệm vụ trinh sát nhiều lần nữa. Một trong những kỷ niệm đáng nhớ của ông trong hơn một thập kỷ làm công tác tham mưu cho Đoàn 125 là chuyến trinh sát xác định tuyến đường mới cho các chuyến tàu không số vào mùa thu năm 1969. Tấm bản đồ liên quan đến sự kiện này đến nay vẫn được ông giữ gìn nguyên vẹn. Ông kể:

- Trước lúc tổ chức đi trinh sát, đồng chí Nguyễn Bá Phát, Tư lệnh Hải quân viết một bức thư giao cho tôi sang Cục Đường biển gặp đồng chí Kỳ, Cục trưởng, đặt vấn đề mượn bản đồ, nói là để phục vụ công tác huấn luyện. Đây là loại bản đồ do Anh xuất bản. Rất may cho tôi, trợ lý của đồng chí Kỳ là anh Tước, nguyên là Trung úy Hải quân, một người bạn cũ của tôi. Khi đồng chí Kỳ giao cho đồng chí Tước phụ trách việc này, đồng chí Tước đã dẫn tôi vào kho và nói: “Cậu cứ chọn thoải mái, muốn lấy cái gì thì lấy”. Thế là tôi có được đầy đủ các loại bản đồ cần thiết.

Đại tá Trần Phong vừa nói vừa chỉ lên tấm bản đồ, giải thích cho chúng tôi hiểu rõ hơn hành trình chuyến đi và việc xác định hải trình cho các con tàu không số sau đó. Thời điểm này, Mỹ chuẩn bị thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”, nên Trung ương chỉ đạo phải tổ chức trinh sát, xác định đường đi, bến bãi mới để đối phó với âm mưu của địch. Trước đó, bản đồ cơ quan tham mưu sử dụng là bản đồ mà miền Bắc in trên cơ sở bản đồ gốc do Pháp xuất bản. Loại bản đồ này thiếu nhiều chi tiết nên chỉ phục vụ được cho các chuyến đi lấy mục tiêu bờ làm chuẩn. Do đã bị địch phát hiện, phong tỏa, truy lùng gắt gao nên chúng ta phải thay đổi đường vận chuyển vũ khí. Các chuyến tàu phải đi theo phương pháp thiên văn, tức là xác định đường, hướng đi dựa vào mặt trời, mặt trăng và các chòm sao. “Đây là chuyến trinh sát có ý nghĩa hết sức quan trọng, làm cơ sở để Bộ tư lệnh Hải quân điều chỉnh, bổ sung phương án chỉ đạo, tổ chức hoạt động của Đoàn tàu không số đạt hiệu quả cao nhất, phù hợp với tình hình mới. Hồi đó, đồng chí Nguyễn Bá Phát có ý định trinh sát, nghiên cứu khu vực Trường Sa để tập kết vũ khí, hàng hóa ở đây. Tuy nhiên sau khi đi trinh sát, thấy rằng phương án tập kết vũ khí, hàng hóa vào các bến ở Nam Bộ vẫn là giải pháp tốt nhất”-Đại tá Trần Phong nói.

Con đường  chiến lược nhìn từ công tác tham mưu

Đại tá Trần Phong nói rằng, hơn 10 năm làm công tác tham mưu cho Đoàn tàu không số, ông có may mắn được là một trong những người đầu tiên tiếp cận các tài liệu, chỉ thị, văn bản... thể hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng, khẳng định vị trí, ý nghĩa chiến lược của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Yêu cầu đặt ra cho các cán bộ làm công tác tham mưu lúc bấy giờ là phải cụ thể hóa tầm chiến lược, chiến dịch của con đường Hồ Chí Minh trên biển bằng những chuyến đi cụ thể của mỗi con tàu, mỗi chiến sĩ. Yêu cầu đặt ra là bằng mọi giá, không để vật chứng lọt vào tay địch. Chỉ cần một sơ suất nhỏ của mỗi chuyến tàu, mỗi chiến sĩ cũng ảnh hưởng đến cả một chiến dịch. Ông kể:

-  Trước mỗi chuyến tàu rời bến, chúng tôi như ngồi trên đống lửa. Sự thành bại của chuyến đi không chỉ phụ thuộc vào các đồng đội trên tàu mà còn là trách nhiệm của những người làm công tác tham mưu. Thời kỳ đầu, mỗi đồng đội khi lên tàu là đều xác định sẵn sàng hy sinh. Trong trường hợp bị địch phát hiện, nếu phải cho nổ tung con tàu để xóa dấu vết thì anh em cũng sẽ hy sinh cùng con tàu. Về sau, công tác tham mưu cho cấp trên có điều chỉnh vấn đề này. Yêu cầu đặt ra là phải bảo toàn lực lượng. Nếu phải phá hủy tàu, thì thuyền trưởng tổ chức cho anh em rời tàu để bảo toàn lực lượng, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ. Trong trường hợp bị địch bắt, phải nhất nhất khai là thủy thủ tàu đánh cá, không được phản bội, ly khai. Yêu cầu bảo đảm bí mật không chỉ cho mỗi cá nhân, mỗi chuyến tàu mà còn mang ý nghĩa sống còn đối với cả một chiến lược. Bởi vậy, nếu phải hy sinh thì sự hy sinh ấy có ý nghĩa vô cùng lớn lao, đó là vì cả sự nghiệp chứ không riêng gì cho mỗi chuyến tàu. Tư tưởng ấy được quán triệt thường xuyên, liên tục và sâu sắc đối với anh em cán bộ, thủy thủ. Và chủ trương xuyên suốt ấy đã được anh em thực hiện một cách trọn vẹn.

Một vấn đề rất quan trọng liên quan đến an toàn cho mỗi chuyến tàu là tải trọng. Trong lúc các tàu sắt do ta đóng có tải trọng tối đa là 50 tấn vũ khí nhưng thực tế anh em đều chở trên 60 tấn. Lý giải vấn đề này, Đại tá Trần Phong cho biết:

- Tải trọng của mỗi chuyến tàu đều được cơ quan tham mưu tính toán kỹ. Qua một số chuyến đầu, anh em trên tàu có sáng kiến bớt lượng nước mang theo để tăng khối lượng vũ khí. Cơ quan tham mưu thấy hợp lý nên đã tham mưu cho Bộ tư lệnh ủng hộ sáng kiến, quyết tâm của anh em. Vì thế, khối lượng vũ khí, hàng hóa vận chuyển tăng lên.

Theo Đại tá Trần Phong, khi tổ chức cho các chuyến tàu không số đi biển bằng phương pháp thiên văn, công tác tham mưu gặp rất nhiều khó khăn, nhất là việc bảo đảm thông tin. Thông tin trên biển với sở chỉ huy đã khó, thông tin giữa các con tàu với các bến còn khó khăn hơn. Tại Sở chỉ huy ở miền Bắc, luôn phải có 3 máy báo vụ để theo dõi, nắm thông tin liên tục để có chỉ đạo kịp thời. Đi bằng phương pháp thiên văn thì khi vào bờ, độ sai lệch về việc xác định địa điểm sẽ cao hơn, nên thông tin từ các tàu với lực lượng ở bến đón hết sức quan trọng. Có thời điểm số tàu cập bến cùng lúc 5-6 chiếc. Việc tổ chức nắm thông tin để đón ở các bến rất vất vả, khó khăn. Những yếu tố đó đều được tính toán, lập phương án cụ thể từ bộ phận làm công tác tham mưu.

Đại tá Trần Phong sinh năm 1935 tại Quảng Nam, nhập ngũ năm 1953. Giai đoạn 1955-1959, ông được cử đi đào tạo tại Trường Hải quân số 3, tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) về chương trình thuyền trưởng và nghiệp vụ tham mưu. Sau khi về nước, từ năm 1963 đến năm 1978, ông gắn bó với Đoàn tàu không số. (Giai đoạn 1964-1973, làm Trợ lý tham mưu. Từ 1973-1975, là Phó tham mưu trưởng. Từ 1975-1978, giữ cương vị Phó lữ đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Lữ đoàn 125). Năm 1984, ông được đi học ở Liên Xô, sau đó về làm Trưởng phòng Vận tải, phát triển lên Phó cục trưởng Cục Hậu cần Quân chủng Hải quân. Ông nghỉ hưu năm 1995, hiện sống tại TP Hồ Chí Minh. Ông nói thành thạo hai ngoại ngữ: Trung Quốc, Nga.

 Bài và ảnh: Phan Tùng Sơn