QĐND - Hoàng Trọng Mậu tên thật là Nguyễn Đức Công, tự là Báu Thụ, sinh năm 1874 trong một gia đình nho học tại xã Cẩm Trường, tổng Kim Nguyên, nay là xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Hoàng Trọng Mậu được xem là người đặc biệt thông minh, trác việt. Ông đỗ đầu trong kỳ thi toàn tỉnh Nghệ An nên thời đó gọi ông là Đầu xứ Công. Vì ghét thế tục, nặng lòng yêu nước thương dân, ông không màng đến chuyện khoa cử, ngày đêm tâm niệm tìm đường cứu nước.

Gặp lúc Phong trào Đông Du nổi lên, ông hăng hái tham gia từ rất sớm. Năm 1908, ông sang Nhật học trường Đông Á Đồng Văn Thư viện tại Tô-ki-ô. Ông là người làm ghi chú và viết lời tựa cho cuốn “Việt Nam Quốc Sử Khảo” của Phan Bội Châu. Năm 1909, Hiệp ước giữa Pháp và Nhật được ký kết. Theo đó, Pháp cho Nhật vào Việt Nam buôn bán; đổi lại, Nhật không cho các nhà cách mạng và học sinh Việt Nam lưu trú ở Nhật nữa. Sau khi bị trục xuất khỏi Nhật Bản, Hoàng Trọng Mậu sang học và tốt nghiệp Trường Võ bị ở Trung Quốc.

Ông Hoàng Trọng Mậu.

Năm 1912, ông tham gia sáng lập Việt Nam Quang phục Hội, giữ chức Bí thư và Quân vụ Ủy viên (Ủy viên phụ trách quân sự). Hoàng Trọng Mậu cùng với Phan Bội Châu thảo “Việt Nam Quang phục quân phương lược” (Chiến lược cách mạng của Việt Nam Quang phục quân).

Năm 1913, ở trong nước thực dân Pháp thẳng tay khủng bố đàn áp Việt Nam Quang phục Hội. Hàng trăm người bị truy tố, 7 người bị xử tử hình, có người bị án chung thân khổ sai, 8 người bị án lưu đày và nhiều người bị tuyên án tử hình vắng mặt. Ở Trung Quốc, cách mạng Tân Hợi thoái trào, Viên Thế Khải làm Tổng thống Trung Hoa dân quốc thay Tôn Trung Sơn, Việt Nam Quang phục Hội lâm vào tình cảnh vô cùng khó khăn. Trong hoàn cảnh đó, Hoàng Trọng Mậu vẫn tiếp tục kiên trì hoạt động. Ông đến Quảng Tây tìm cách liên kết với lực lượng dân quân Trung Hoa vừa bị giải tán, nhằm chuẩn bị lực lượng cách mạng.

Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ngày 13-3-1915, theo sự chỉ đạo của Phan Bội Châu, Hoàng Trọng Mậu chỉ huy cánh quân tấn công quân Pháp ở đồn Tà Lùng (cửa khẩu ở huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng), nhưng không thành. Có một chi tiết đáng chú ý: Theo hồ sơ của mật thám Pháp, mà hiện nay bà Nguyễn Thị Minh Thâm, con gái nhà Hán học Nguyễn Đức Vân, là cháu nội của Hoàng Trọng Mậu đang lưu giữ được, thì ngày 5-5-1915, Vua Duy Tân ký một Sắc chỉ mật phong Hoàng Trọng Mậu làm Thống lĩnh tả quân chánh đạo chỉ huy nghĩa quân chuẩn bị cuộc khởi nghĩa do vua Duy Tân phát động, dự kiến sẽ diễn ra vào năm 1916.

Ngày 28-5-1915, trong khi đang ở Hương Cảng đợi tàu đi Thái Lan để tiếp tục hoạt động cách mạng, thì ông bị mật thám Pháp phát hiện và nhờ cảnh sát Anh bắt. Sau đó, chúng đưa ông về giam ở Hỏa Lò - Hà Nội.

Trong thời gian bị giam cầm tại nhà tù Hỏa Lò, bị giặc Pháp tra tấn dã man và dụ dỗ xảo quyệt, nhưng ông vẫn bền gan vững chí, không chịu khuất phục. Ông khảng khái nói rõ mục đích làm cách mạng của mình, nhưng tuyệt đối không khai báo về bí mật của tổ chức cách mạng. Đặc biệt là: Trong hồ sơ mật thám của Pháp hiện còn lưu giữ tại Cục Lưu trữ Quốc gia (Hà Nội) còn có bức thư ông viết tại Hỏa Lò gửi Toàn quyền Đông Dương. Trong thư, ông đã khảng khái tuyên bố lập trường cách mạng của mình; đồng thời có những lời lẽ đanh thép lên án chính sách cai trị của thực dân Pháp và nói rõ vì sao dân Việt Nam làm cách mạng.

Sau 8 tháng giam cầm tra tấn, kết hợp với dụ dỗ mua chuộc, thực dân Pháp không thể khuất phục được ý chí kiên cường của nhà chí sĩ yêu nước, ngày 24-1-1916, chúng đã đưa ông ra xử bắn tại trường bắn Bạch Mai. Ông bị xử bắn cùng lúc và cùng chôn chung với chí sĩ Trần Hữu Lực (tức Nguyễn Thức Canh). Hoàng Trọng Mậu và Trần Hữu Lực là chiến hữu, đồng chí lại là đồng hương huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

Trước ngày bị hành hình, ông đã viết câu đối “Tuyệt mệnh”. Và ông đã đọc trước họng súng quân thù:

Ái quốc hà cô! duy hữu tinh thần lưu bất tử

Xuất sư vị tiệp, thả tương tâm sự thác lai sinh

Dịch nghĩa: 

Yêu nước tội gì, chỉ có tinh thần còn sống mãi

Ra quân chưa thắng, xin đem tâm sự gửi mai sau.

Năm 1917, Đặng Đoàn Bằng viết bài ca ngợi Hoàng Trọng Mậu, gọi ông là “Kỳ Nam tử”  (Một người nước Nam kỳ lạ). Năm 1926, khi đến giảng bài cho lớp học của Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội tại Quảng Châu, Bác Hồ gặp và hỏi ông Trần Văn Cung (quê Nghi Lộc, anh ruột của Thượng tướng Trần Văn Quang) về gia cảnh hiện thời của Hoàng Trọng Mậu. Sau khi nghe xong, Bác Hồ nói: “Thế mới thật là Anh hùng!”.

Hoàng Trọng Mậu ra đi hoạt động cách mạng để lại người vợ trẻ mới 29 tuổi với 5 con thơ. Bà Lê Thị Lựu đã một mình khuya sớm tảo tần nuôi các con ăn học trong bần hàn và luôn bị kẻ thù sách nhiễu, khủng bố. Noi gương cha, các con của Hoàng Trọng Mậu, gái cũng như trai, đều tu chí học hành rèn luyện, trở thành những người có học, tham gia phong trào yêu nước và cách mạng.

Trong thế hệ cách mạng những năm đầu thế kỷ 20, Hoàng Trọng Mậu là một chí sĩ yêu nước tài danh. Ông là học sinh giỏi nhất trong phong trào Đông Du (theo lời của Phan Bội Châu); là một trong những nhân vật chủ chốt của tổ chức Việt Nam Quang phục Hội. Được biết, tới đây thành phố Hà Nội đang xúc tiến nghiên cứu đặt tên đường phố cho các danh nhân tiêu biểu. Thiết nghĩ, các cơ quan chức năng nên nghiên cứu đặt tên Hoàng Trọng Mậu cho một cung đường trên địa bàn Thủ đô.

Trung tướng NGUYỄN MẠNH ĐẨU