QĐND - Những đứa trẻ da cháy nắng, mái tóc vàng hoe, xơ xác được buộc vội bằng dây chun, hoặc cắt gần như trọc. Áo mặc, cái sờn vải, cái khuy còn khuy mất, quần lò xo mòn đũng... Hằng ngày, các em phải ra biển nhặt tôm cá sau mẻ lưới từ tờ mờ sáng cho kịp phiên chợ chiều, rồi mới trở về với “Người mẹ nghèo” - Nguyễn Thị Thông (thôn Thành Lập, xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) trong “lớp học tình thương” còn nhiều thiếu thốn…

Năm 2004, tôi tình cờ gặp cô giáo Nguyễn Thị Thông tại buổi vinh danh của tỉnh Thanh Hóa dành cho những trẻ em nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, nỗ lực phấn đấu vươn lên, đạt thành tích cao trong học tập và những thầy, cô giáo có tấm lòng với giáo dục.

Hôm ấy, đi cùng cô Thông là Hằng và Vinh-hai em học sinh nghèo học giỏi. Đặc biệt hơn, hai em đều trong hoàn cảnh phải bỏ học nửa chừng, được cô Thông “nhặt về” từ bãi biển Hậu Lộc dạy học lại. Kết quả, hai em không những đủ trình độ học tiếp mà còn trở thành những học sinh tiêu biểu trong hàng trăm em học sinh giỏi của trường...

Cô giáo Thông.

Hơn 6 năm sau, vào đúng hôm trời Hậu Lộc đổ mưa rào, tôi tìm đến nhà cô theo dòng địa chỉ ghi vội. Những con đường ở trong thôn Thành Lập đều ngập nước, vì vậy mà “lớp học tình thương” của cô Thông hôm ấy không có học sinh. Cũng chính vì thế mà cô có thời gian tiếp tôi.

Ngồi đối diện với tôi, gương mặt cô so với lần gặp trước đã nhiều nếp nhăn hơn, sạm đen hơn vì gió biển. Đôi mắt cô đượm buồn, khi tôi vô tình hỏi về gia đình riêng của cô. Cô bảo, hạnh phúc lớn nhất của người phụ nữ là có một tổ ấm, có một người chồng để nương tựa, có những đứa con để vỗ về, nhưng điều đó đã không đến với cô! Hơn 60 năm nay cô vẫn "một mình"!...

Không dám hỏi thêm nữa, nhưng rồi tôi cũng biết khá rõ hoàn cảnh của cô qua lời kể của người chị gái mù, năm nay đã ngoài 70 tuổi, hiện đang sống cùng cô.

Chị gái cô kể: "Ngày còn xuân sắc, em nó nhiều người dạm hỏi, xin được đón về làm dâu lắm, nhưng vì gia đình nhà cô khó khăn quá. Hai chị cả đi lấy chồng, còn cô thì mù lòa, bố mẹ già yếu không có người chăm sóc… Thế là nó cứ khất lần người ta, năm này sang năm khác, đến hết cả tuổi xuân… Tình duyên bỏ ngỏ, nó ở vậy chăm sóc bố mẹ và tôi”.

Cô Thông yêu nghề dạy học từ nhỏ, nên học hết lớp 7 đã năn nỉ bố mẹ xin cho dạy lớp vỡ lòng của thôn. Làm cô giáo làng sau một năm, UBND xã thấy cô yêu nghề, động viên cô đi học sư phạm. Năm 1966 ra trường, theo nguyện vọng cô được điều về quê dạy cấp 1 (nay là tiểu học). Và cũng từ ấy, năm nào cô cũng đạt giáo viên dạy giỏi, rồi vinh dự được kết nạp Đảng khi vừa tròn 23 tuổi.

Mấy năm nỗ lực, cô giáo Thông được bổ nhiệm làm Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Đa Lộc, rồi Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Đông Minh (Đông Sơn) và đến năm 1987 cô về Trường Tiểu học Ngư Lộc 2, nhận chức Hiệu trưởng cho đến khi về hưu.

Bây giờ bố mẹ cô đã qua đời, cô vẫn chăm lo cho người chị gái mù, không lời than thở. Số tiền lương hưu hơn hai triệu đồng/tháng đủ cho cô và chị gái sống nương tựa vào nhau.

Ở vùng quê nghèo, lại sống thanh bạch nên cũng không thiếu. Nhưng cô chẳng đành lòng sống an nhàn, khi hằng ngày chứng kiến rất nhiều đứa trẻ không được đến lớp vì mồ côi, tàn tật. Hoàn cảnh gia đình chúng lại quá khó khăn…

Cô Thông kể: Năm 1996, tai họa ập xuống Ngư Lộc sau một cơn giận dữ của biển cả. Biết bao gia đình tan nát, vợ mất chồng, con mất cha... kéo theo những đứa trẻ nghỉ học hàng loạt, nhiều đứa phải lao động kiếm tiền để phụ giúp gia đình khi chưa từng được biết đến cái chữ. Và kể từ đó cô ấp ủ một ước mơ-xóa mù chữ cho những mảnh đời tội nghiệp ấy. Trăn trở với những hoàn cảnh khó khăn và cái nghiệp "làm thầy" khiến cô yêu thêm những đứa trẻ nghèo.

Cô giáo Thông với lớp học tình thương.

Về hưu ở tuổi 56, với danh hiệu Nhà giáo ưu tú và thành tích dìu dắt hàng nghìn học sinh khôn lớn, cô vẫn nghĩ mình còn quá trẻ, quá khỏe, chưa nên nghỉ ngơi... Chỉ sau vài tháng nghỉ dạy học, cô đi đến gõ cửa từng nhà, vận động cha mẹ các em cho con tới lớp của cô học, để ngày 10-2-2002, cô chính thức khai giảng lớp học ở ngay căn nhà hai gian của mình, với 16 em, đứa 8 tuổi, đứa 13 tuổi, cũng có đứa 22 tuổi...

Ngày ấy còn khó khăn, cô tháo những tấm cửa gỗ làm bàn học, nhặt những tấm ván mỏng làm bảng... Các em đến học đều nghèo khó, bất hạnh nên chẳng có tiền, cô phải trích cả lương hưu của mình mua sách, vở, đồ dùng học tập cho chúng.

Cái tên "lớp học tình thương" là nhân dân Ngư Lộc ưu ái đặt cho lớp. Còn bọn trẻ thì vẫn gọi cô Thông là mẹ.

Thế rồi, căn nhà nhỏ tồi tàn, mưa thì dột, nắng rọi tới đầu, ngày càng nhiều học sinh hơn. Lớp học tình thương của cô trở thành "địa chỉ đỏ" cho những người nghèo mù chữ. Và nó đã không đủ chỗ ngồi cho các em. Nhiều đêm cô mất ngủ để tính toán, tìm địa điểm mở lớp học mới.

“Tôi quyết định tận dụng con ngõ nhỏ vào nhà để làm lớp học”-cô Thông nói.

Tuy lớp học trong con ngõ nhỏ, mái lợp bằng những tấm phên cũ nát, chiếc bảng còn chắp vá, nhưng ngày ngày vẫn vang lên tiếng học bài của lũ trẻ, tiếng cô dịu dàng giảng giải…

Nhắc đến những học sinh của mình, cô Thông vừa khóc, vừa nói: “Có lần đang dạy, một học sinh bị tụt huyết áp, tôi phải cõng cháu chạy vội đến trạm xá. Sau buổi học, đến thăm gia đình mới được biết mẹ cháu bị ốm triền miên, nó bữa đói bữa no đành phải nghỉ học, nhưng vì nể tôi mà gia đình cho đi học tiếp. Tôi lên báo cáo với UBND xã, xin hỗ trợ cho cháu được 10kg gạo. Từ khi có cháo húp, đến lớp nó không còn ngất nữa”.

Không chỉ chăm lo từ cái ăn, cái mặc và sức khỏe của từng em, mà “Mẹ Thông” còn chỉ bảo “các con” rất tận tâm. Đối với học sinh yếu “Mẹ Thông” dạy thêm, hoặc phân công cho em khá kèm. Đã có nhiều em học sinh nhờ đó mà có đủ kiến thức tiếp tục đến trường, nhiều em đã trưởng thành.

Cô Thông đưa cho tôi xem chồng vở tập viết và khoe: "Em xem đi, đây là sản phẩm của các con cô đấy".

Những trang viết chưa thật đẹp vì hầu hết học sinh của cô đôi tay quen mò cua, mò ốc, kéo lưới, đánh cá... nay phải cầm bút, cầm phấn không quen, nhưng quyển vở nào cũng được giữ gìn sạch sẽ, nét chữ nắn nót và cẩn thận… Mới thấy những đứa trẻ đã cố gắng thế nào dưới sự dìu dắt của người mẹ hiền.

Hết lứa này qua lứa khác, lại dạy toàn những trẻ đặc biệt, nên công việc "ươm chữ" của cô thật nhọc nhằn. Em Ngô Thị Tâm bị liệt bẩm sinh, trí tuệ phát triển chậm, theo học 5 năm nay mà vẫn chưa biết viết. Dạy mãi mà cứ như "nước đổ lá khoai", “mẹ Thông” không ngại, nhưng “con” thì nản, rồi bỏ học. Cô lại lặn lội đến nhà kiên trì khuyên bảo mấy ngày liền Tâm mới dũng cảm theo học tiếp.

Rồi hai anh em Nguyễn Văn Chung, Nguyễn Văn Đại nhà nghèo đến mức hai đứa phải mặc chung một cái quần, thế là cứ buổi học, buổi nghỉ. Biết được hoàn cảnh, cô mua cho chúng thêm bộ quần áo. Từ đấy hai đứa mới đi học đều…

Đại thủ thỉ với tôi: "Em yêu mẹ Thông lắm. Em sẽ chăm chỉ học thật tốt để không làm mẹ buồn. Sau này lớn em sẽ mua cho mẹ một cái ti-vi thật to để mẹ xem…”. Gương mặt ngây thơ và ước mơ của cậu bé 10 tuổi khiến tôi rơm rớm nước mắt…

Như để xua đi những băn khoăn của tôi, cô nói: “Thôn Thành Lập mới cho cô mượn văn phòng làm nơi dạy học, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội thì tặng bàn ghế. Lần sau em về lớp học sẽ khang trang, thoáng mát, không dột nát như thế này nữa…”.

Rời lớp học tình thương, chúng tôi ra về mang theo hình ảnh những khuôn mặt của các em nhỏ đến lớp còn nhem nhuốc bởi bao vất vả đời thường và lại càng cảm phục cô giáo Nguyễn Thị Thông-người phụ nữ nghèo có tấm lòng nhân hậu.

Bài và ảnh: Vũ Hạnh