Nguyễn Văn Út cùng tổ tuần tra trên sông Sài Gòn.

Dập dềnh, dập dềnh trên sông Sài Gòn. Ngôi nhà nổi ấy lúc nào cũng phần phật lá cờ Tổ quốc bay trong gió. Đó là chốt số 6 của Biên phòng Cửa khẩu cảng Sài Gòn - nơi ở và làm việc của 8 cán bộ, chiến sĩ. Các anh sống thầm lặng, giản dị, nhưng đầy nhiệt huyết với công việc; nồng nàn với đồng đội và sông nước…

Cùng các anh tuần tra, kiểm soát tàu, thuyền trên sông, bến cảng bằng ca nô, cả ban đêm và ban ngày, rồi lại cùng nhau ngồi quanh mâm cơm đạm bạc trên chốt giữa dòng sông hào phóng nắng gió, tôi mới hiểu một phần sự gian nan, vất vả, hiểm nguy trong công việc và sự hồn nhiên, vô tư, trong sáng của những cán bộ, chiến sĩ mang quân hàm xanh nơi đây. Nghe các anh nói, nhìn công việc các anh làm, tôi biết các anh nhận thức rất rõ tầm quan trọng đặc biệt của nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của một cửa khẩu lớn nhất nước, có quan hệ giao thương với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Hằng năm, nơi đây có hàng chục nghìn lượt tàu, thuyền vào cập cảng, với hàng chục nghìn lượt thuyền viên, khách quốc tế xuất nhập cảnh; hàng trăm nghìn lượt người lao động đến làm việc trong khu vực cảng và thông quan xuất nhập khẩu hàng chục triệu tấn hàng hóa…

Bởi vậy, hầu hết cán bộ, chiến sĩ Trạm cửa khẩu cảng Sài Gòn đều lập thành tích trên mặt trận giữ gìn an ninh, trật tự. Người có thành tích nổi trội hơn cả là Thiếu tá chuyên nghiệp Nguyễn Văn Út – nhân viên hàng hải của trạm. Nếu không được giới thiệu trước, tôi không nghĩ anh là người hùng của sông nước.

Thiếu tá Nguyễn Văn Út
Ở tuổi 50, nước da ngăm đen, nụ cười hiền khô, giọng nói nhẹ nhàng, hóm hỉnh, ai cũng nghĩ Nguyễn Văn Út là chàng trai dễ gần, dễ mến chứ đâu biết anh còn là khắc tinh của bọn tội phạm. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở huyện Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh (nay là phường Hiệp Phú, quận 9), từ nhỏ Nguyễn Văn Út đã làm ruộng khỏe và bơi lặn giỏi. Sau khi học xong lớp Hạ sĩ quan Cảnh sát và lớp Kỹ thuật Hàng hải, Út thực sự thuận tay với chức năng, nhiệm vụ ở Trạm cửa khẩu Sài Gòn. Từ năm 2000 đến nay, anh đã tham gia phá 8 vụ án, bắt 35 đối tượng. Trong đó có 3 vụ cướp; 2 vụ buôn bán, vận chuyển ma túy; 3 vụ trộm cắp tài sản công dân; thu 1.355 tép hê-rô-in, 120 gói thuốc phiện, 150 ống thuốc gây nghiện và trên 20 lượng vàng cùng nhiều tài sản giá trị khác.

Có lần (khoảng 9 giờ đêm), đang tuần tra trên sông Sài Gòn, nghe tiếng kêu “cướp, cướp” thất thanh trên đường Bạch Đằng, Nguyễn Văn Út tức tốc phóng ca nô áp sát vào bờ, rồi cùng anh em trong tổ triển khai truy bắt cướp. Phát hiện thấy một thanh niên có dấu hiệu khả nghi, đang vội vã lách qua những khách tản bộ trên bến sông, Út ra lệnh đuổi theo. Biết không thể chạy thoát, tên cướp vội ném một vật gì đó xuống sông để phi tang rồi bỏ chạy. Khi Út đuổi tới gần, tên cướp bất ngờ quay lại, rút dao đâm. Anh né người tránh thì bị mất đà, ngã chúi xuống. Tên cướp nhào tới, đâm tiếp. Anh vừa kịp đưa tay lên chống đỡ, vừa nhanh trí co hai chân đạp mạnh vào bụng tên cướp. Bị đòn bất ngờ, tên cướp té ngửa, dao văng ra. Anh chồm dậy, bằng động tác võ thuật điêu luyện, kịp thời khóa tay tên cướp, giao hắn cho Công an phường Nguyễn Thái Bình. Ngay sau đó, anh trở lại hiện trường tìm vật chứng mà tên cướp đã ném xuống sông. Gần 2 giờ đồng hồ lặn ngụp, tìm kiếm, Nguyễn Văn Út cùng đồng đội đã đưa từ dưới sông lên 2 sợi dây chuyền có gắn đá hoa cương trị giá 5 lạng vàng. Vật chứng này được trả lại cho nạn nhân là chị Nguyễn Thị Xuân Lan (cư trú tại phường 13, quận Tân Bình). Chị Lan xúc động, không cầm nổi nước mắt khi nhận lại những kỷ vật quý. Chị chỉ biết cảm ơn người chiến sĩ biên phòng dũng cảm, mưu trí, hết lòng vì dân. Đã nhiều lần Nguyễn Văn Út nhận được những lời cảm ơn chân thành và sự cảm phục của các nạn nhân và mọi người. Có cả những nạn nhân là người nước ngoài, như ông Jean Dierrmauite (sinh năm 1939, quốc tịch Pháp). Lần ấy, Út thật khó quên. Anh kể:

- Hôm ấy là ngày 21-1-2004, khi mặt trời vừa tắt nắng, tổ chốt chúng tôi đang làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh khu vực cảng Nhà Rồng để phục vụ chương trình bắn pháo hoa đón mừng năm mới thì nghe tiếng người hô hoán có cướp từ phía bến đò Mỹ Cảnh. Ngay lúc ấy, tôi nhìn thấy 3 thanh niên vừa chạy vừa ngoái cổ lại, rồi bất ngờ nhảy xuống sông Sài Gòn. Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là bọn cướp đang cùng đường tẩu thoát. Tôi cùng 2 chiến sĩ phóng ca nô đuổi theo. Tới nơi, tôi và một chiến sĩ nhảy xuống sông, bắt được 2 tên. Tên còn lại bám vào thành tàu du lịch cánh ngầm. Khi ca nô chúng tôi đến gần, hắn lẩn trốn vào phía sau bánh lái, dùng dao nhọn chống trả. Trời tối, khó quan sát, nếu nhảy xuống sông bắt dễ bị hắn đâm, rất nguy hiểm mà ngồi trên ca nô đuổi thì hắn sẽ trốn mất. Suy tính như vậy, tôi quyết định nhảy xuống sông bắt sống hắn dưới nước. Tên này rất ngoan cố và dai sức, nên cuộc vật lộn, giằng co kéo dài hơn 10 phút mà hắn vẫn chống trả quyết liệt. Cuối cùng tôi phải lặn sâu tới 5 mét để đánh lạc hướng và tránh đòn tấn công của hắn, sau đó mới tìm cách bắt được. Như vậy, chỉ sau vài chục phút, chúng tôi đã tóm gọn 3 tên cướp, thu được tang vật là một chiếc ví trong đó có 460 đô-la Mỹ, 290 ơ-rô, một bằng lái xe, một thẻ tín dụng cùng các giấy tờ khác của ông Jean Dierrmauite.

Trước đây, trên đoạn sông này còn có băng cướp khoảng hơn một chục tên lộng hành. Mỗi khi bị truy đuổi, chúng nhảy xuống sông tẩu thoát. Khi được giao nhiệm vụ quản lý khu vực, Út bàn với anh em bí mật nghiên cứu quy luật hoạt động của bọn chúng và vận động nhân dân cung cấp nhiều thông tin liên quan để triệt phá. Thủ đoạn quen thuộc của bọn này là lợi dụng đêm tối, dùng thuyền nhỏ cặp mạn tàu nước ngoài để bán ma túy và thừa cơ trộm cắp tài sản của các thuyền viên trên tàu. Khi bị phát hiện, truy đuổi thì chúng nhảy xuống sông, lẩn vào đêm tối trốn thoát. Biết rõ thủ đoạn ấy, đã nhiều lần tổ chốt của Út ngăn chặn kịp thời, không để chúng ra tay gây án. Hằn học trước sự cứng rắn, kiên quyết của các chiến sĩ biên phòng, tên “Lệ què” cầm đầu băng nhóm đã nhiều lần đánh tiếng sẽ trả thù, nếu không làm ngơ cho chúng “làm ăn” thì vợ con Út sẽ ăn đòn và ngôi nhà của Út sẽ nổ tung! Không nao núng tinh thần, quyết tâm tấn công tội phạm đến cùng để bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, Nguyễn Văn Út cùng đồng đội đã phối hợp với lực lượng Công an quận 1, TP Hồ Chí Minh truy quét thành công, bắt gọn băng nhóm “Lệ què”.

Khi được hỏi: “Động cơ nào khiến anh luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc?”, Nguyễn Văn Út trả lời thật giản dị:

- Khi nhập ngũ, tôi hiểu quân đội từ nhân dân mà ra, là con em của nhân dân, là công cụ bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân nên tôi luôn tâm niệm lời Bác Hồ dạy: Việc gì có lợi cho dân, cho nước thì quyết chí làm; việc gì có hại thì kiên quyết tránh. Nhờ vậy, mọi công việc tôi làm đều tự tin, thoải mái và thành công, được mọi người yêu mến.

Nếu không được đồng đội yêu mến thì làm sao 15 năm liên tục, Nguyễn Văn Út được bầu là Chiến sĩ thi đua. Năm 2004, anh là Chiến sĩ thi đua cấp toàn quân, năm 2005 là cấp toàn quốc.

- Không chỉ nêu cao trách nhiệm trước công việc, Nguyễn Văn Út còn gương mẫu trong nếp sống, là hạt nhân đoàn kết của đơn vị - Thiếu tá Bùi Hải Sâm, trưởng chốt số 6 nói với chúng tôi như vậy.

Chốt có 8 anh em ở 8 miền quê khác nhau, coi nhau như anh em một nhà. Nguyễn Văn Út tuy là nhân viên, nhưng tuổi cao hơn, gương mẫu trong mọi công việc như người anh cả. Không thể kể hết những chuyện cụ thể hàng ngày, biểu hiện tình cảm chia ngọt sẻ bùi, thương yêu, chăm sóc lẫn nhau của anh em trong chốt số 6. Càng những lúc khó khăn thì phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ ở đây càng rõ nét. Tôi nhớ mãi câu chuyện, khi biết một cán bộ trẻ quê Tây Ninh hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không đủ tiền cho con nhập học đầu năm, Nguyễn Văn Út đã bàn với anh em quyên góp, đủ để cháu đến trường.

Đóng quân giữa thành phố lớn, ít ai biết những khó khăn của các anh trong cuộc sống sinh hoạt. Lênh đênh giữa dòng sông, bốn bề là nước – nhưng là nước lợ - nên các anh dùng nước ngọt thật tiết kiệm. Ở cách gia đình không xa, nhưng yêu cầu trực chiến rất cao nên vài ngày các anh mới được về gặp vợ con.

Câu nói vui của chị Lê Thị Thủy (vợ anh Út) khi chúng tôi tới thăm nhà, khiến tôi cứ nhớ mãi:

- Anh ấy suốt ngày sông nước, nên tôi chỉ ở nhà chăm sóc các con và quản lý mấy chục tấm bằng, giấy khen, huân, huy chương này cũng vui.

Chị cảm thông công việc của chồng và tự hào về những thành tích anh đạt được. Những tặng thưởng của anh, được chị khéo léo, trình bày trang trọng trên 3 mặt bức tường của phòng khách. Chị biết, để có được những tấm bằng ấy là một quá trình phấn đấu, rèn luyện bền bỉ, lặng thầm không mệt mỏi của chồng cùng đồng đội.

Mỗi ngày một chiến công. Những chiến công thầm lặng ấy của các anh như những ánh sao lấp lánh trong đêm, không chói chang, rực rỡ nhưng hòa vào nhau, tạo nên nguồn sáng xóa mờ đi những mảng tối, bóng đen lẩn khuất trong đời. Đẹp sao, lấp lánh ánh sao xanh!

Bài và ảnh: ĐÀO VĂN SỬ