QĐND - Trong cái rét ngọt của buổi chiều xuân, tôi tìm gặp người đàn bà mang tên Bùi Thị Đông ở địa chỉ 54B, tổ 25, cụm 4, phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội. Qua những ngõ ngách ngoằn nghèo, đi vào tận cùng của con hẻm tôi cũng đến được nhà bà. Căn nhà ngói nằm im vắng, tuềnh toàng, không đồ đạc, gian bếp cũ đã xập xệ, mạng nhện giăng chi chít. Hỏi ra mới biết, bà đang bán hàng tại chợ Nhật Tân và ở đây, người ta gọi bà là bà Tám Đông hay bà Đông “ết”. Đó là tiếng gọi của người đời dành cho người đàn bà gần 20 năm “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, gắn bó, cảm thông, chia sẻ và chăm sóc cho những người nhiễm HIV (có H).
Tận cùng nỗi đau
Người dân ở chợ Nhật Tân chỉ cho tôi quán nước cuối chợ của bà, nhưng người ta cũng nhắc, bà thường quanh quẩn làm mọi việc vặt đâu đây chứ không thường xuyên ngồi bán hàng. Họ giải thích rằng, nhiều người không thích, hay nói đúng hơn là không dám uống nước ở quán của bà. Nghĩ tới cảnh bà lau rửa, vệ sinh cho những thân hình run rẩy, gầy yếu, lở loét vì căn bệnh thế kỷ, họ sợ, sợ đến nỗi đôi khi bà cho cái gì đấy cũng không dám ăn, chỉ cầm và để đấy. Quả thực như vậy, gọi là quán nước cho oai nhưng chỉ có cái bàn và mấy cái ghế cũ sờn, kèm theo dăm ba chai nước, điếu thuốc, kẹo lạc,… được bày ra trong khoảng đất lợp bởi mấy tấm phi-bờ-rô xi-măng, bên cạnh khu nhà vệ sinh công cộng bốc ra mùi khó chịu. Chợ về chiều, đâu đó lác đác vài bóng người, không gian vắng lặng, chỉ còn tiếng lao xao của những cơn gió, tôi thấy người đàn bà đang hý hoáy dọn dẹp, cọ rửa bàn ghế, bát đũa… tôi biết đó là người mình cần gặp. Nhìn bề ngoài của bà Đông, ít ai có thể nhận ra được người phụ nữ này lại có một quãng đời mà “ông trời chưa cho lấy một ngày vui” (bà Đông chia sẻ). Bà bắt đầu tự nhiên kể chuyện với tôi từ những câu hỏi thăm, chúc sức khỏe nhân dịp năm mới. Rồi cứ thế, bà vừa làm, vừa kể cho tôi nghe quãng đời nhiều đắng cay của mình.
Lần giở lại từng trang ký ức, bà nhớ, cách đây hơn ba chục năm, lúc ấy cuộc sống khó khăn muôn chừng. Làm chưa kịp ráo mồ hôi là đã hết tiền. Vì thế, thương cảnh gia đình túng quẫn, thương cảnh bố mẹ vất vả, cậu con trai cả của bà sớm đi làm thêm để giúp đỡ gia đình. Bước chân ra biển lớn cuộc đời, cuộc sống tự do đã đẩy đứa con trẻ người, non dạ của bà đến với ma túy. Đến khi phát hiện ra thì ma túy đã ăn sâu vào xương tủy chàng trai này. Thương con, năm lần, bảy lượt bà chạy vạy vay mượn đưa con đi cai nghiện. Nhưng ba lần đưa con đi thì ba lần đứa con tái nghiện. Rồi điều tồi tệ nhất cũng đến. Người ta phát hiện anh dương tính với HIV. Nỗi đau quá lớn về người con trai cả chưa nguôi, thì cái tin như sét đánh ngang tai về người con trai thứ hai khiến bà chết lặng. Ba đứa con của bà thì hai người bị ma túy và căn bệnh thế kỷ bủa vây. Nhưng nỗi đau không chịu buông tha người đàn bà này. Bà đau đớn, tuyệt vọng khi người chồng không chịu được tai tiếng của người đời đã bỏ mặc 4 mẹ con bà với món nợ để theo người đàn bà khác. Số phận chua chát, cay đắng, có lúc bà đã tìm đến cái chết, nhưng duyên nợ với đời vẫn còn, bà nuốt nước mắt vào trong, một mình bươn chải lo cho 2 đứa con bệnh tật.
Cuộc sống cùng quẫn đã đẩy người đàn bà này đều đặn một tháng 2 lần, lang thang khắp các bệnh viện ở Hà Nội bán máu lấy tiền nuôi con. Bà chỉ mong người ta gọi đi cho máu cấp cứu, vì bà thuộc nhóm máu O nên dễ dàng cho máu và mỗi lần như thế mà thường được trả 500.000 đồng, cao hơn hai, ba lần so với những lần bán máu bình thường. Bà nhớ, có lần làm quần quật cả ngày rồi đi bán máu, mệt quá ngất xỉu ở chợ, may có người nhìn thấy nên còn sống tới giờ. Nghĩ lại, vậy mà đã hơn 20 năm bà bán dòng máu nóng của mình để nuôi con, nhưng bà bảo, giờ không đi bán máu nữa vì sức khỏe không cho phép.
 |
Những công việc dọn dẹp, rửa bát đĩa… hằng ngày của bà Đông.
|
Nghe câu chuyện của bà, ai cũng cảm thông cho số kiếp một người phụ nữ lam lũ, vất vả một đời vì con. Dù ở cùng cực nỗi đau, tột cùng sự bất hạnh nhưng bà vẫn cố gắng làm chỗ dựa cho con. Lau những giọt nước mắt lăn dài trên hai gò má chai sạn, bà tâm sự, nhiều lúc giận con lắm nhưng mẹ sao bỏ được con, dù nó có lỗi lầm gì thì vẫn là đứa con mình đẻ ra, vẫn phải cưu mang, đùm bọc lấy nó. Cuộc sống vốn chứa đựng nhiều điều kỳ lạ đến thế, dù nỗi bất hạnh vẫn còn nhưng dòng đời cứ chảy, bà lại một lần nữa, chiều lòng và lo lập gia đình cho con. Đầu năm 2002, bà hạnh phúc khi có đứa con dâu, nhưng cũng đau đớn trăm phần khi bệnh AIDS cũng không buông tha cho dâu mình. Để rồi, chỉ được 13 tháng sau ngày cưới, con dâu bà phát bệnh giai đoạn cuối. Cũng từ đấy, một tay bà chăm sóc và lo liệu chu đáo tới khi con dâu qua đời. Và cũng chỉ mấy tháng sau cái chết của người vợ, cậu con trai cả của bà cũng phát bệnh rồi qua đời; bỏ lại nỗi đau đớn xót xa của mẹ và cậu em trai vừa nghiện, vừa nhiễm HIV cùng món nợ lên đôi vai vốn đã quằn xuống của bà.
“Đâu đó thấy bóng dáng con mình”
Với người đàn bà phải chạy miếng ăn từng ngày, làm đủ nghề để kiếm sống như: Chẻ củi, xách nước thuê, dọn dẹp vệ sinh hàng quán, đến lượm lặt các thứ đồ thừa thãi trong chợ… nhưng hằng ngày vẫn tự nguyện bỏ thời gian, công sức chăm sóc, động viên những người có H quả là một việc mà không nhiều người có thể giải thích được. Đối diện với những thân hình gầy yếu, đặc biệt trong thời kỳ AIDS giai đoạn cuối, nội tạng bị phá hủy, mỗi ngày đi vệ sinh hàng chục lần, toàn thân đầy vết lở loét, người nhà không ai dám lại gần, thực sự chúng ta mới cảm phục tấm lòng của người phụ nữ gần 20 năm gắn bó với những người có H. Đối với bà, việc làm đó xuất phát từ tình thương, sự đồng cảm. Bà tâm sự, bà là mẹ của những đứa con bị nhiễm căn bệnh thế kỷ, bà hiểu được rằng, trong những năm tháng cuối đời chúng sống trong dằn vặt, ân hận và đau đớn. Sự giày vò, cắn rứt lương tâm là hậu quả của lối sống buông thả, một thời lầm lỗi của chúng. Nhưng con người sống trước hết cần lòng vị tha. Trong khi những người thân ruồng rẫy, xã hội xa lánh thì mình phải mở rộng vòng tay đón lấy họ, giúp họ sống những ngày cuối cùng đúng là một con người. Bà chạnh lòng nghĩ rằng, nếu như con mình không có người chăm sóc, động viên, thì nó sống không đáng kiếp người rồi, đến lúc chết cũng không được tử tế thì khổ quá. Chính cái tâm và những suy nghĩ đó đã giúp bà có nghị lực gần gũi với những người có H và giúp họ sống có ích trong những ngày cuối đời.
Lặng lẽ với những người nhiễm HIV
Gần 20 năm qua, người dân ở chợ Nhật Tân vẫn thấy người đàn bà, nay đã hơn 60 tuổi, ngày mưa cũng như ngày nắng, đi khắp chợ nhặt nhạnh từng thanh củi khô, mảnh giấy… gom lại để đun nước tắm cho người có H. Kê ba hòn gạch làm bếp, khi nào có người cần, bà Đông lại hì hụi đun lá sả, hương nhu, vỏ bưởi… chở đến tận nhà tắm gội, giặt giũ cho người bệnh hoàn toàn miễn phí. Với giọng trầm buồn, bà nói với tôi, sáng nay, bà vừa tắm rửa và khâm liệm cho đứa cháu (ở Sóc Sơn) của một người bán hàng trong chợ. Thương tâm lắm, bà chẳng giúp được gì, với bà, sự chăm sóc cuối cùng ấy là niềm an ủi để những tâm hồn bệnh tật này ra đi thanh thản.
Bà kể, trước đây chăm sóc cho con mình và những người có H khác bà chỉ làm theo bản năng và kinh nghiệm. Lúc ấy, bà thực sự rất mơ hồ về căn bệnh này. Mãi đến năm 2005, khi Quỹ toàn cầu phòng, chống HIV/AIDS về phường phổ biến kiến thức HIV thì bà mới thực sự hiểu và đăng ký trở thành tình nguyện viên cho quỹ. Từ đó, ngày mưa cũng như ngày nắng, bà đến tận từng nhà dân để tuyên truyền, phổ biến kiến thức HIV, phát bao cao su, phát kim tiêm miễn phí cho đối tượng nghiện hút. Thêm vào đó, bà nấu nước lá, chở đến từng nhà người bệnh để lau rửa, tắm giặt cho họ. Người bệnh chết, ngay cả người nhà cũng không dám tắm rửa, thế rồi lại một tay bà làm và khâm liệm, chôn cất họ. Những năm gần đây, nhờ quá trình tuyên truyền của bà và Câu lạc bộ Những người bạn (phường Nhật Tân), sự kỳ thị của người dân với HIV và AIDS giảm hẳn.
Đến và hiểu, tôi cảm phục trước tấm lòng của người đàn bà này. Cuộc sống vốn còn nhiều vất vả nhưng hằng ngày, bà vẫn âm thầm đến với người nhiễm H. Giờ đây, ngay cả khi số tiền trợ cấp ít ỏi của Quỹ toàn cầu phòng, chống HIV/AIDS không còn nữa nhưng bà vẫn duy trì công việc của mình. Ai có người nhà cần vệ sinh, tắm giặt trong những lúc bệnh ở giai đoạn cuối, tìm đến bà cũng nhận lời, không quản xa xôi, mưa nắng. Rồi người nhà có nhã ý trả thù lao cho bà, nhưng bà từ chối, bởi bà coi đó là phần trách nhiệm của mình với cuộc đời, một phần xuất phát từ lòng thương cảm. Bà tự nhận việc làm của bà chả có gì đáng nói nhưng bà đâu biết rằng, những việc làm rất đơn giản ấy lại có thể giúp hàng trăm người tránh được nguy cơ nhiễm HIV, nhiều người hiểu rõ hơn về căn bệnh thế kỷ và người đời không còn thái độ kỳ thị với HIV/AIDS. Và quan trọng hơn chính tấm lòng của bà đã cảm hóa biết bao tâm hồn chai sạn trước sự xa lánh của người đời. Nhiều người bệnh không còn mặc cảm, tự ti nữa mà vui vẻ hòa nhập với cộng đồng, tham gia nhiều hoạt động kinh tế-xã hội khác; họ đã được sống những ngày tháng cuối đời có ích và ra đi trong sự thanh thản, bình yên.
Hà Nội đã về đêm, phố đã lên đèn. Chia tay bà Đông “ết”, đọng lại trong tâm khảm tôi là hình ảnh người đàn bà chỉ có ước mơ duy nhất “có thật nhiều sức khỏe để tham gia vào hoạt động phòng, chống sự lây lan của căn bệnh thế kỷ”. Chúng tôi, những người biết đến câu chuyện của bà luôn mong bà có thật nhiều sức khỏe và cần lắm sự cảm thông của người đời với những người đã dành trọn tâm huyết để cuộc đời thêm đẹp hơn.
Bài và ảnh: Vũ Dung