(Tiếp theo và hết)
QĐND - Nghe nhà báo Lê Đình Dư nói thế, tôi biết khó lay chuyển được ý chí của anh. Trong lòng tôi lo rằng, quân Mỹ và quân ngụy đông hơn hẳn, lại có xe tăng, thiết giáp, máy bay, pháo hạng nặng, chúng tiến công liên tục, hết đợt này đến đợt khác, nhỡ chúng chiếm được chốt, bắt sống nhà báo Lê Đình Dư. Khi đó, chúng sẽ tuyên truyền là bắt được một nhà báo cộng sản ở miền Bắc Việt Nam, lại là Báo Quân đội nhân dân. Điều đó sẽ gây hậu quả khôn lường. Vì vậy, tôi nghiêm giọng ra lệnh: "Đồng chí Lê Đình Dư, vì sự an toàn cho nhà báo, đồng chí vào ngay hầm trú ẩn! Đây là lệnh, đồng chí phải chấp hành kỷ luật chiến trường, chấp hành mệnh lệnh của người chỉ huy cao nhất ở đây!".
Đôi mắt nhà báo Lê Đình Dư quắc lên rất sáng. Dường như anh hiểu về mệnh lệnh của tôi. Anh nói với giọng cương quyết: "Anh Thà! Người chiến sĩ có thể đứng bắn, quỳ bắn, nằm bắn. Còn phóng viên chúng tôi chỉ có quyền đứng thẳng trên chiến hào, dùng vũ khí là máy ảnh, bút máy để ghi lại chiến công của đồng đội và tội ác của quân thù! Đồng chí biết đấy, tôi cũng đã tự trang bị cho mình súng và 6 băng đạn, 14 lựu đạn, thủ pháo, từ các chiến sĩ đã hy sinh. Anh, Tiểu đoàn trưởng ở đâu, tôi ở đó!".
 |
Đoàn cán bộ, phóng viên báo Quân đội nhân dân thắp hương, viếng mộ liệt sĩ Lê Đình Dư. Ảnh: Vũ Quang Thái
|
Trước lý lẽ đó, tôi không thể cưỡng lại được. Nhà báo Lê Đình Dư tiếp tục xông xáo chụp ảnh, ghi chép.
Càng về trưa, địch càng tăng cường bắn phá ác liệt vào trận địa Tiểu đoàn 47. Khói lửa mịt mù, tiểu đoàn bị thương vong rất nhiều. Khoảng 14 giờ ngày 21-1-1968, hai đại đội địch cùng xe tăng đột phá vào làng Lâm Xuân Đông và một phần công sự của Tiểu đoàn 47. Không để mất trận địa, nhà báo Lê Đình Dư đã anh dũng cùng lực lượng dự bị của Tiểu đoàn 47 đánh bật địch ra khỏi làng. Vừa bắn AK, nhà báo Lê Đình Dư vừa chụp ảnh chiến trận.
Sau khi bộ binh địch bị đánh bật ra khỏi làng Lâm Xuân Đông, hai máy bay AD6 của Mỹ đến ném bom dữ dội vào trận địa của Tiểu đoàn 47. Một chiếc máy bay AD6 của địch bị bộ đội ta bắn cháy, rơi xuống như một bó đuốc. Không bỏ lỡ khoảnh khắc này, nhà báo Lê Đình Dư đứng thẳng đưa máy ảnh chụp chiếc máy bay đang cháy ngùn ngụt trên không. Cũng trong khoảnh khắc ấy, một quả đạn pháo địch rơi đúng chỗ đồng chí Lê Đình Dư đứng tác nghiệp. Nhà báo Lê Đình Dư anh dũng ngã xuống, chiếc máy ảnh vỡ tan!
Đẩy lui được địch, nhưng tiểu đoàn bị thương vong nhiều. Cả hai nhà báo Lê Đình Dư và Nguyễn Ngọc Nhu đều hy sinh. Khi anh em chôn cất nhà báo Lê Đình Dư, tự tay tôi bỏ ống kính, phần còn lại của chiếc máy ảnh vào mộ anh để làm dấu. Vừa xong công việc chôn cất tử sĩ, thì đồng chí Ngãi, liên lạc của tiểu đoàn chạy đến mời Tiểu đoàn trưởng về hầm Ban chỉ huy để họp. Các đồng chí trong Đảng ủy, chỉ huy tiểu đoàn và phái viên của trên có mặt đầy đủ. Trước thương vong quá lớn, lại mất liên lạc với trên, đạn dược cũng đã sắp hết, chưa nhận được tiếp tế kịp thời, nhiều đồng chí trong Đảng ủy, chỉ huy đề nghị tạm rút lui để bảo toàn lực lượng. Ngay cả đồng chí phái viên của cấp trên cũng nói: “Nếu ở lại thì phiên hiệu của đơn vị không còn!”. Tôi nghĩ đến nhiệm vụ được giao của tiểu đoàn là phải chốt chặn, giữ vững trận địa càng lâu càng tốt, nên không nhất trí rút lui. Nhưng Đảng ủy và các đồng chí phái viên biểu quyết, đa số nhất trí rút lui. Là Tiểu đoàn trưởng và là Đảng ủy viên, tôi phải chấp hành nghị quyết tập thể. Nên tôi ra lệnh tiểu đoàn tiếp tục nhanh chóng giải quyết thương binh, tử sĩ; thu gọn đội hình hành quân theo hướng ngược lại.
Hàng quân lặng lẽ đi trong đêm, dưới ánh pháo sáng chập chờn. Anh em đi, mặt cúi xuống đất lầm lì không nói. Lòng tôi bồn chồn không yên. Tôi nhớ đến nhà báo Lê Đình Dư với giọng cương quyết: “Phóng viên chúng tôi chỉ có quyền đứng thẳng trên chiến hào... Anh ở đâu, tôi ở đấy!”. Nhà báo còn dũng cảm như thế. Cả hai nhà báo và hơn 70 đồng chí đã anh dũng hy sinh, lẽ nào chúng tôi lại rút lui? Nghĩ đến điều đó, tôi chạy đến tìm đồng chí Phạm Ngọc Khôi, phái viên chính trị, thộp ngực áo quát: "Mày là phái viên chính trị, sao mày cũng đồng ý rút lui?”. Khôi bảo: “Rút lui là sai lầm!”. Nghe vậy, tôi nói với Khôi: “Dù không có ai, tôi vẫn ở lại!”.
Như có sự thúc giục từ lời nói kiên quyết của nhà báo Lê Đình Dư, tôi chạy lên phía trước hàng quân nói lớn: "Yêu cầu anh em Tiểu đoàn 47 dừng lại!”. Đứng trên cồn cát cao, tôi nói tiếp: "Thưa anh em, tôi là Trần Văn Thà, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 47, xin lỗi tất cả anh em! Rút ra trong lúc này là một sai lầm, mong anh em tha thứ. Bây giờ tôi kêu gọi anh em ở lại cùng tôi đánh địch, giữ vững bờ sông Cửa Việt, hoàn thành nhiệm vụ trên giao, dù phải hy sinh! Tôi không ra lệnh mà kêu gọi ai đồng tình thì theo tôi!".
Nói xong, tôi xách khẩu AK đi trước. Rồi anh em cùng lần lượt theo sau. Đến làng Lâm Xuân Đông, tôi kiểm quân số, thật mừng, còn hơn một trăm anh em. Các đồng chí phái viên của trên cũng ở lại. Tôi tổ chức lại đội hình chiến đấu, phân công nhiệm vụ từng vị trí chốt giữ. Sau đó, bộ đội khẩn trương củng cố công sự, trận địa, chuẩn bị chiến đấu đánh địch.
Ngày hôm sau, 22-1-1968, Tiểu đoàn 47 thắng lớn, đánh bại các cuộc tiến công của địch. Những ngày sau, tiểu đoàn được trên chi viện, tăng cường quân số, tiếp tục giữ vững trận địa, đẩy lui các đợt tiến công của địch. Trong 108 ngày đêm chiến đấu, Tiểu đoàn 47 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đánh 98 trận, bắn cháy, bắn chìm 33 tàu chiến, 51 xe tăng, thiết giáp; bắn rơi 5 máy bay, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, trong đó có hàng trăm lính Mỹ.
Trọn vẹn nghĩa tình
Năm 2015, Phòng biên tập Quốc phòng-An ninh tổ chức sưu tầm, biên soạn và xuất bản cuốn sách “Ký ức phóng viên chiến tranh”. Tham gia biên tập cuốn sách trên, tôi được đọc những câu chuyện, hồi ức, nghe kể về các phóng viên thế hệ cha anh trong chiến tranh, trong đó có nhà báo, liệt sĩ Lê Đình Dư, với bút danh Hồ Thừa. Nhà báo Kim Đồng kể: "Khi về làm Báo Quân đội nhân dân, nhà báo Lê Đình Dư rất xông xáo. Anh đã viết nhiều bài báo, ghi chép, truyện ký về nơi túi bom bến phà Long Đại (Quảng Bình), chiến trường Trị-Thiên ác liệt, về trận đánh ở thung lũng Y-a-đrăng... với bút danh Hồ Thừa. Quê anh Dư ở xã Hương Sơ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Vợ anh Dư là cô giáo Hồ Thị Kim, đang giảng dạy ở một trường cấp 2 huyện Thuận Thành (tỉnh Bắc Ninh). Hồ Thừa là ghép họ của vợ và quê anh, với mong muốn đất nước mau thống nhất để anh có dịp đưa vợ về thăm quê nhà. Trước khi đi vào chiến trường Quảng Trị cùng với nhà báo Nguyễn Ngọc Nhu, anh Lê Đình Dư đưa cho tôi bức tượng gỗ và nói: “Các tài liệu, sách, báo tớ đã gói gọn, nhét dưới gầm giường. Chỉ có bức tượng này, cậu giữ hộ cho tớ. Nếu cơ quan phải đi sơ tán, cậu nhớ mang theo, đừng để thất lạc, mất của tớ”. Bức tượng là kỷ niệm của Lê Đình Dư và cô giáo Kim trong buổi đi chơi với nhau ở Hà Nội. Cô giáo Kim đã mua bức tượng trên tặng chồng, với mong muốn khi nhìn thấy kỷ vật như luôn có vợ bên cạnh”. Bức tượng đặt trên bàn làm việc của Lê Đình Dư mới được mấy tuần lễ thì anh đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh.
Cuối năm 1967, đầu năm 1968, có nhiều phóng viên Báo Quân đội nhân dân vào chiến trường, đến các khu vực trọng điểm không quân Mỹ đánh phá. Nhà báo Nguyễn Đức Toại, phóng viên của Phòng Quân sự cũng đã có mặt ở đất lửa Quảng Bình. Đầu năm 1968, nhà báo Nguyễn Đức Toại tình cờ gặp các nhà báo Lê Đình Dư và Nguyễn Ngọc Nhu trên đường vào Vĩnh Linh. Cả ba người trò chuyện về các chuyến đi, dự định sắp tới và ngủ chung trong một căn hầm ở khu vực bến phà Long Đại. Sáng hôm sau, khi chia tay nhau lên đường, Lê Đình Dư trao cho nhà báo Nguyễn Đức Toại một bài thơ tặng con gái, nếu như ông về Hà Nội trước. Khi biết tin hai đồng đội, đồng nghiệp hy sinh, nhà báo Nguyễn Đức Toại lặng đi. Ông đã tìm gặp gia đình chị Hồ Thị Kim, trao lại bài thơ và quyết định nhận con gái nhà báo Lê Đình Dư là Lê Hồ Hương để chăm nom, đỡ đần.
Năm 1992, chị Lê Hồ Hương đã là cán bộ giảng dạy của một trường đại học tại TP Hồ Chí Minh. Do hoàn cảnh khó khăn, nơi ở chưa ổn định nên nhà báo Nguyễn Đức Toại cùng với cơ quan đề nghị Tổng cục Chính trị xin cấp nhà ở cho gia đình chị Hương. Muốn cấp nhà phải có hộ khẩu thường trú ở TP Hồ Chí Minh. Nhà báo Nguyễn Đức Toại lại lo làm thủ tục, chuyển Lê Hồ Hương từ hộ khẩu thường trú ở TP Cần Thơ vào hộ khẩu thường trú gia đình mình. Có được hộ khẩu ở TP Hồ Chí Minh, tháng 8-1993, Tổng cục Chính trị đã cấp cho Lê Hồ Hương, con liệt sĩ Lê Đình Dư căn nhà số 448B, phố Nguyễn Tất Thành, quận 4, TP Hồ Chí Minh. Từ đó, bà Hồ Thị Kim và con gái có nhà ở, từng bước ổn định đời sống.
Kể từ khi nghe tin chồng hy sinh, bà Hồ Thị Kim luôn tâm nguyện tìm được hài cốt và phần mộ của chồng để được hương khói. Hơn 30 năm sau, chị và con gái được sự giúp đỡ của các cựu chiến binh Bộ tư lệnh B5, Trung đoàn 270, đặc biệt là Đại tá Trần Văn Thà, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 47, người đã chứng kiến giờ phút hy sinh anh dũng và trực tiếp đánh dấu vị trí chôn cất liệt sĩ Lê Đình Dư. Năm 1999, Đại tá Trần Văn Thà đã về lại chiến trường Gio Linh, Quảng Trị cùng gia đình bà Hồ Thị Kim và tìm được chính xác mộ liệt sĩ Lê Đình Dư với chiếc ống kính máy ảnh còn trong mộ chí.
Nói về liệt sĩ, nhà báo, Thượng úy Lê Đình Dư, Thiếu tướng Phạm Văn Huấn, Bí thư Đảng ủy, Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân khẳng định: Là nhà báo chiến sĩ, đồng chí Lê Đình Dư luôn có bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng. Trong thực hiện nhiệm vụ, sinh hoạt và cuộc sống, dù ở tòa soạn hay đi tác nghiệp ở chiến trường nào, đồng chí cũng đều nêu cao tinh thần trách nhiệm và gương mẫu; tác phong xông xáo, không ngại gian khổ, hy sinh; hết mình vì tập thể, vì đồng đội, đồng nghiệp, vì chất lượng, hiệu quả tuyên truyền của báo. Nhà báo Lê Đình Dư là tấm gương sáng để cán bộ, phóng viên, biên tập viên, chiến sĩ Báo Quân đội nhân dân học tập, noi theo.
Đối với tôi, thế hệ làm báo sau chiến tranh, qua những câu chuyện kể lại và ký ức của những nhà báo đi trước để viết về liệt sĩ, nhà báo anh hùng Lê Đình Dư, chắc chắn còn nhiều điều tôi chưa nói hết được. Có thể bài viết còn hạn chế, tôi mong được gia đình liệt sĩ Lê Đình Dư và bạn đọc lượng thứ.
ĐÌNH XUÂN
Ký ức về nhà báo, anh hùng liệt sĩ Lê Đình Dư (Kỳ 1)