Tôi đã từng được nghe, được xem hình ảnh người nông dân Việt Nam chế tạo thành công máy cắt lúa, máy gieo sạ, máy bóc vỏ lạc... Những vị "kỹ sư chân đất" ấy đã làm cho tôi cũng như nhiều người trong nước và cả bạn bè thế giới nể phục. Điển hình như người nông dân 80 tuổi làm chúng tôi ngạc nhiên bởi hằng ngày ông vẫn hăng say lao động, chế tạo ra nhiều nông cụ phục vụ gia đình và bà con nông dân...

Một buổi chiều đầu mùa hè, đi qua biết bao con đường ngoằn ngoèo, đất đá từ thị xã Phủ Lý chúng tôi tìm gặp ông Đinh Công Viên trong căn nhà lá ba gian đơn sơ nằm sâu trong thôn Khuyến Công, xã Khả Phong, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.

Sinh ra trong một gia đình thuần nông quanh năm chỉ biết có vụ lúa, vụ ngô, vợ mất sớm để lại cho ông nuôi bảy người con. Vì miếng cơm manh áo cho gia đình ông phải đi làm tất cả những việc nặng nhọc như vác đất, cắt lúa, cày ruộng, cấy lúa... mà cái đói, cái nghèo cứ đeo bám mãi. Công việc vất vả đi làm thuê "ráo mồ hôi là hết tiền". Chứng kiến cảnh gia đình, làng xóm cứ mãi chìm trong đói nghèo với ruộng lúa, vườn ngô, bà con phải vất vả thu nhập chẳng đủ ăn, ông tự nhủ cần phải làm một cái gì đó thật ý nghĩa cho quê mình. Nhưng với sức khỏe "tuổi đã về chiều" ông chưa biết mình nên bắt đầu từ đâu và làm công việc gì cho phù hợp mà lại giúp đỡ được bà con nông dân.

Chúng tôi đến thăm và gặp ông đang cặm cụi làm việc bên những thanh sắt trước cửa căn nhà bé nhỏ với chiếc búa trên tay. Chỉ có mấy dụng cụ làm việc thô sơ như vậy mà người nông dân này đã sáng tạo ra không biết bao nhiêu nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Dừng tay làm việc, ông nói chuyện với chúng tôi và chỉ tay giới thiệu những chiếc máy đang chuẩn bị đem đi trưng bày ở các hội chợ miền núi lần này. Loại máy đầu tiên ông sáng chế ra là máy tẽ ngô và khi được hỏi về lý do nào ông sáng tạo ra nó, ông Viên tâm sự: "Xem ti vi thấy rất nhiều người nông dân sáng tạo ra máy cắt lúa, máy gieo sạ... mà sao mình không làm được. Quê trồng nhiều ngô, tôi thấy mọi người tẽ hạt mất rất nhiều công, thế là tôi nghĩ cần sáng tạo ra chiếc máy tẽ ngô để giúp đỡ bà con".

Đầu năm 2001, ý tưởng ấy lóe lên thúc giục ông nhanh chóng bắt tay vào thực hiện. Ông nghĩ lấy những mảnh gỗ thừa đục đẽo, lắp ghép chúng vào nhau giống hình chiếc phễu bên trong có răng cưa, trục quay gắn mô tơ chạy bằng điện. Khi cho bắp ngô vào đầu nhỏ thì đầu kia cho ra hạt ngô riêng. Bắt tay vào làm việc, lắp ghép những mảnh gỗ lại ông mới thấy không dễ dàng chút nào. Các miếng gỗ không ăn khớp với nhau nên việc đục đẽo phải khéo léo, cẩn thận. Sau nhiều ngày làm việc chiếc máy tẽ ngô cũng thành công và đưa vào chạy thử nó phát ra tiếng kêu ro ro, dân làng thấy thế, tò mò sang xem mà không khỏi ngạc nhiên và thán phục.

Sản phẩm đầu tay thành công cho hiệu quả gấp rất nhiều lần việc tẽ ngô bằng tay. Những hạt ngô đầu tiên dần hiện ra, ông và mọi người đều vui mừng vì từ nay tẽ ngô không còn vất vả như cũ. Chiếc máy làm bằng gỗ nên chạy một vài lần đã mòn, năng suất giảm. Thấy vậy ông liền lắp bằng sắt. Cả tuần mày mò, lắp ghép những thanh sắt nhưng các đầu mối không ăn khớp, ông phải mang ra thợ để hàn, chặt... Bao nhiêu cố gắng, nỗ lực cùng lời động viên của dân làng, sau nhiều ngày chiếc máy cũng ra đời và chạy thử với sự chứng kiến của bà con trong thôn xóm. Nhưng khi cho bắp ngô vào "tuốt" thử thì nó cứ trơ ra, còn nguyên.

Ông nói: "Tôi thất vọng vì bao nhiêu công lao bỏ ra như đổ xuống sông, xuống biển. Nhưng khi nghĩ đến sự mong mỏi, trông chờ và những lời động viên, khích lệ của bà con, tôi quyết tâm làm lại".

Suy nghĩ mãi, ông tự đặt câu hỏi trong đầu tại sao chiếc máy làm bằng gỗ chạy được mà khi làm bằng sắt lại không chạy. Những ánh mắt hy vọng, mong muốn một chiếc máy hữu ích ra đời của mọi người như tiếp thêm sức mạnh để ông cố gắng. Quyết tâm làm lại lần nữa, chiếc máy được chỉnh sửa một số chi tiết nhưng nó còn tồi tệ hơn rất nhiều vì cứ cho bắp ngô vào là lại kẹt cứng ở trong không thoát ra được. Ông đã bóp đầu suy nghĩ tìm ra chỗ sai để khắc phục và phải chỉnh sửa mấy lần máy mới chạy. Nhìn đống ngô cứ dần đầy trước mắt, ông Viên thở phào nhẹ nhõm. Chiếc máy lần này cho năng suất hơn 8 tạ/giờ, tiêu thụ một kW điện hoặc 0,65 lít dầu, công suất 1-12kW thật là ngoài sức tưởng tượng của ông và mọi người.

Có máy rồi, ông tẽ ngô của gia đình mình và giúp đỡ người dân trong làng, xã. "Tiếng lành đồn xa" người dân các xã của huyện Kim Bảng mời ông về giúp. Ông Viên rất mừng vì "đứa con tinh thần" của mình có ích. Người dân quanh vùng và các tỉnh khác biết sản phẩm của ông liền tìm đến đặt mua những chiếc máy do ông chế tạo. Từ đó ông bắt tay vào sản xuất máy tẽ ngô để đáp ứng yêu cầu của bà con nông dân. Khi chúng tôi nhắc đến giá thành của sản phẩm, ông Viên liền cười và nói "tôi nhận làm với mong muốn giúp đỡ, cải thiện sức lao động của bà con mình là chính chứ tôi có kinh doanh đâu mà lấy lãi nhiều".

Hiện nay, sau 7 năm, từ khi chiếc máy tẽ ngô ra đời ông lại sáng chế thêm 6 loại máy khác nhau với nhiều chức năng như máy bốn chức năng đập lúa, bóc vỏ lạc, vỏ đậu tương, tẽ ngô; máy san đất trồng ngô; máy mài các loại bột; máy gieo hạt đậu tương trên gốc rạ thay sức người; máy xới đất, vun đất vào gốc; máy thái rau quả cho gia súc, gia cầm... Mỗi loại mang chức năng khác nhau nhưng nó đều vì mục đích chung là mang lại năng suất cao, cải thiện sức lao động cho bà con nông dân. Nhiều người từ các tỉnh khác đã tìm đến để đặt mua máy. Hôm chúng tôi đến nhà ông, tình cờ gặp anh Hà ở Hưng Yên sang mua máy. Anh Hà cho biết: "Tôi đã mua máy tẽ ngô và máy thái rau cho gia súc, gia cầm của ông Viên dùng tiện lắm. Nay biết ông mới sáng chế ra máy xới đất tôi lại tìm sang để mua. Nông dân làm nông nghiệp rất thích và nó hợp với túi tiền của chúng tôi”.

Trong căn nhà bé nhỏ của ông chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng về những tấm bằng khen treo đầy trên tường của Liên hiệp Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam VIFOTEX trao tặng “Danh hiệu nhà sáng tạo cao tuổi nhất” và bản quyền cho máy tẽ ngô; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tặng bằng khen “Thành tích trong việc cải tiến máy công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp”; UBND tỉnh Hà Nam trao giải nhì trong Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc lần thứ IX (2006-2007) về “Thành tích xuất sắc trong công tác sáng kiến”… Có lẽ đó là những tấm bằng khen quý giá nhất, nhưng ông Viên càng cảm thấy vinh dự và tâm đắc hơn khi nói với chúng tôi về tâm nguyện ông đã đạt được và tấm bằng khen của bà con nông dân trao tặng cho ông là lòng biết ơn, nể phục với chức danh “Kỹ sư chân đất”.

Không dừng lại ở đó, ông còn mang các sản phẩm của mình đi triển lãm, trưng bày tại các hội chợ do Ban tổ chức Chợ công nghệ và thiết bị vùng núi phía Bắc tổ chức tại Hòa Bình (2006), Thái Nguyên (2007)… với mục đích chính giới thiệu sản phẩm tới bà con nông dân miền núi và quảng bá hình ảnh người nông dân Việt Nam sáng tạo với bạn bè thế giới. Các sản phẩm của ông đưa ra cạnh tranh với sản phẩm của nông dân nước bạn như Trung Quốc, Nhật Bản… và đã được Ban tổ chức đánh giá rất cao về tính năng sử dụng.

Niềm vui trên khuôn mặt người nông dân này hiện lên rất rõ nhưng ông nói với chúng tôi vẫn trăn trở và mong ước có được sự hỗ trợ, giúp đỡ của nhà nước, chính quyền địa phương về vốn và nguyên vật liệu để ông có cơ hội sáng tạo thêm nhiều loại máy phục vụ lợi ích nông nghiệp hơn. Những điều tưởng chừng như đơn giản ấy đối với nông dân nghèo biết đến bao giờ mới làm được. Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước giúp đỡ nông dân nghèo vay vốn, các cấp chính quyền địa phương cần quan tâm hơn nữa tới đời sống của bà con nông dân.

Ước mơ sáng tạo ra nông cụ sản xuất của ông Viên đã thành hiện thực và nó đang ngày ngày giúp đỡ cho bà con nông dân của nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Thật đáng nể phục biết bao vì một người nông dân chân đất không có điều kiện để học hành nhiều, quanh năm chỉ biết đồng ruộng, con trâu, con bò mà lại sáng tạo ra những nông cụ hữu ích như vậy. Chúng tôi thấy rất vui và khâm phục lòng quyết tâm, óc sáng tạo của ông Viên. Nếu Việt Nam chúng ta có nhiều tấm gương cần mẫn sáng tạo như ông Viên thì người dân làm nông nghiệp đỡ vất vả hơn rất nhiều.

VÂN ANH