QĐND - Một chiều cuối tuần, mặc dù đã hẹn gặp từ trước nhưng khi đến Viện Châm cứu Việt Nam (49 Thái Thịnh, Đống Đa, Hà Nội), nơi ông đang làm Viện trưởng, chúng tôi thấy ông vẫn bận rộn châm cứu cho các bệnh nhân với rất nhiều kim châm ngắn, dài khác nhau. Nở nụ cười hiền từ, ông nói: “Cuộc sống này còn có nhiều người bị bệnh tật và hoàn cảnh khó khăn đang cần mình giúp đỡ lắm”. Ông là Anh hùng lao động, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học (GS, TSKH), Thầy thuốc nhân dân Nguyễn Tài Thu, Phó chủ tịch Hội Châm cứu thế giới, Chủ tịch Hội Châm cứu Việt Nam.

Mười sáu tuổi vào đội “quyết tử quân”

Mùa thu năm 1946, vừa bước sang tuổi 16, chàng thanh niên Nguyễn Tài Thu đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, tình nguyện lên đường ra mặt trận và tham gia quyết tử quân bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Ông bùi ngùi nhớ lại: “Khi đơn vị tạm rút khỏi Hà Nội, anh em đồng chí mỗi người một ngả. Ra đi nhớ tiếc Hà Nội, nhưng tất cả đều chung một quyết tâm son sắt: Ngày mai Hà Nội sẽ về ta/Thủ đô độc lập mọi nhà vui tươi”.

Trong những ngày tháng chiến đấu gian khổ ở chiến khu Việt Bắc, do yêu cầu nhiệm vụ, ông được phân công nhiều vị trí như: Chiến sĩ liên lạc, chiến sĩ công binh, quân y sĩ. Rồi một buổi chiều cuối mùa thu năm 1951, chứng kiến cảnh đồng chí, đồng đội và đồng bào mình bị thương nhiều do súng đạn của giặc Pháp, người lính trẻ Nguyễn Tài Thu không cầm được nước mắt, giọng nghẹn ngào tâm sự với đại đội trưởng của mình lúc bấy giờ là đồng chí Nguyễn Hồng Sơn rằng: “Chiến tranh gian khổ quá anh ạ, sau này em xin đi học bác sĩ để về khám, chữa bệnh cho mọi người”. Chính thời gian trực tiếp cầm súng và cứu chữa cho các đồng đội đã khơi nguồn cho những đột phá trong ngành y nước nhà sau này.

Giáo sư Nguyễn Tài Thu đang chữa bệnh bằng châm cứu cho trẻ em.

Năm 1953, khi đang học năm thứ nhất trường y khoa trong kháng chiến, ông được cử sang Trung Quốc theo học ngành Đông y. Năm 1958, sau 6 năm học tập, nghiên cứu ở nước bạn, ông trở về nước và trở thành người thầy thuốc biết kết hợp Đông y với Tây y để chữa bệnh cho đồng bào như Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã dặn dò trước lúc đi học. Từ năm 1967, ông tập trung nghiên cứu sâu vào ngành châm cứu, vào thời điểm đó các lương y của ta cơ bản chỉ biết châm cứu với cây kim nhỏ ngắn khoảng 4-5cm gọi là hào châm. Đọc sách ông biết được từ đời nhà Chu (Trung Quốc), 700 năm trước Công nguyên đã có 9 loại châm với các cây dài nhất cũng phải tới 40cm. Ông bắt đầu nghiên cứu dùng các kim có độ dài khác nhau để chữa bệnh.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đang sục sôi, ông lại tiếp tục xung phong vào tuyến lửa. Lúc đó, các ca mổ chưa có thuốc gây mê để giảm đau, nên các chiến sĩ bị thương rất đau đớn khi phải trải qua phẫu thuật. Từ những đêm thức trắng, ông đã nghiên cứu và châm gây tê phục vụ mổ thành công hàng nghìn trường hợp hiểm nghèo. Để có được kết quả ấy, ông đã lấy chính mình ra để thí nghiệm, khi chắc chắn thành công ông mới áp dụng vào điều trị và chữa bệnh cho bệnh nhân.

“Ông tiên” giữa đời thường

Danh y Hải Thượng Lãn Ông từng dạy: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình không nên cầu lợi kể công”. Cả đời làm nghề y ông luôn thấm nhuần tư tưởng ấy. Nhắc đến Anh hùng lao động, GS, TSKH Nguyễn Tài Thu, nhiều người thường dành cho ông những cái tên gần gũi, trìu mến như một sự ngưỡng mộ, kính trọng và biết ơn: “Vua châm cứu”, “Ông thánh Việt Nam”, “Huyền thoại sống”, “Thần kim”, “Thầy thuốc của người nghèo khổ”…

Tháng 4-1982, Bộ Y tế cho phép thành lập Viện Châm cứu tách từ Viện Đông y. Với hai bàn tay trắng, khi được cấp đất là một bãi lầy đầy cỏ lác, nhưng không nản chí, GS, TSKH Nguyễn Tài Thu đã cùng tập thể vượt qua muôn vàn khó khăn, âm thầm góp tiền xây dựng bệnh viện từ tiền của cá nhân mình bằng các hợp đồng giảng dạy và chữa trị ở nhiều nước trên thế giới; đến nay đã xây dựng được một bệnh viện châm cứu hiện đại với 22 khoa, phòng, ban, bộ phận. Ngoài ra, ông còn thành lập Trung tâm châm cứu ở 34 Hòa Mã, Hà Nội. Kể từ khi thành lập Viện Châm cứu, ông đã cùng lãnh đạo viện thực hiện chủ trương không thu viện phí khi chữa trị cho người nghèo, người già cô đơn đau yếu và trẻ em. Tại Viện Châm cứu, các cháu nhỏ được nuôi ăn và chữa bệnh miễn phí. Mỗi cháu có một chiếc cặp lồng để lĩnh khẩu phần mỗi bữa ăn. Đó là sự chăm lo của ông và các thầy thuốc thuộc Viện Châm cứu trong suốt 30 năm qua. Chứng kiến ông thực hiện việc chữa bệnh ở trung tâm mới thấy hết tâm huyết với nghề và lòng yêu thương con trẻ bị bệnh tật. Ngoài công việc nghiên cứu, giảng dạy ở trong và ngoài nước thì mỗi ngày GS, TSKH Nguyễn Tài Thu đã khám, chữa bệnh cho 40-60 bệnh nhân, trong đó có khoảng 20-30 trẻ em tàn tật. Với các bệnh nhân là trẻ em, nhiều em bị câm điếc, liệt, tự kỷ, mù lòa... thì việc châm cứu rất khó vì vấp phải phản ứng, nhiều em sợ hãi khóc thét, giãy giụa. Thế nhưng bằng sự yêu thương, GS, TSKH Nguyễn Tài Thu luôn nhẹ nhàng động viên, dỗ dành để các em chữa bệnh.

Gần 60 năm tận tụy với ngành đông y và châm cứu, GS, TSKH Nguyễn Tài Thu đã có một bộ công trình nghiên cứu đồ sộ được các nhà khoa học thế giới và trong nước ghi nhận. Trong công tác đào tạo nghiên cứu khoa học, GS, TSKH Nguyễn Tài Thu là người thầy mẫu mực đáng kính, một tấm lòng nhân ái, tài năng, đức độ. Ông đã viết gần 30 cuốn sách về châm cứu và lý luận đông y xuất bản bằng nhiều thứ tiếng, đã nghiên cứu 4 công trình cấp Nhà nước, 8 công trình cấp bộ; đào tạo được hàng trăm nhà khoa học có trình độ chuyên môn sau đại học, gần 5000 thầy thuốc châm cứu cộng đồng, lập được nhiều cơ sở chữa bệnh bằng châm cứu và thuốc nam tại 46 tỉnh, thành phố trong cả nước...

Đặc biệt, ông đã nghiên cứu “Cây kim tân châm Việt Nam” và tiến hành thành công những công trình khoa học về châm cứu phổ cập trên toàn thế giới: Châm tê phục vụ phẫu thuật (không dùng thuốc) được 120.000 ca trong chiến tranh; Nghiên cứu sử dụng kim châm cứu dài (từ 10-80cm) và kim to để chữa các chứng bệnh khó và mãn tính, đặc biệt là các di chứng liệt. Cây kim Việt Nam còn tham gia vào công trình chống và hỗ trợ cai nghiện ma túy, đạt kết quả tốt trong nước và được nhiều nước trên thế giới áp dụng như: Pháp, I-ta-li-a, Mê-hi-cô, Bun-ga-ri, Ô-xtrây-li-a...

Đến nay, ông cũng không thể nhớ được cụ thể, nhưng đã có hàng trăm nghìn lượt bệnh nhân được điều trị khỏi như: Liệt nửa người, di chứng của tai biến mạch máu não, viêm não Nhật Bản B... mà hầu hết là bệnh nhân nghèo đến từ khắp nơi trong cả nước. Rất nhiều bệnh nhân coi ông là ân nhân của mình và gia đình, họ xin được gọi là “ông”, là “bác”, coi như ông là người ông, người bác tài ba, kính trọng.

Báo Người Cộng hòa của Pháp ra ngày 12-3-1982 thuật lại lời của một quan chức nói về GS Nguyễn Tài Thu: “... Trong chiến tranh Việt Nam, ông đã làm việc dưới hầm sâu 20m dưới lòng đất, ông đã đi bộ 120km để đến chữa bệnh cho người anh em sắp chết... mà những lời này đã phác họa nên chân dung một con người, đặc biệt một con người có hai dáng vẻ: Người thầy thuốc và người nhân hậu của một thầy thuốc nổi tiếng thế giới...”. Ông được tặng bằng Giáo sư danh dự của nhiều nước và là công dân danh dự của nước Mê-hi-cô.

Những điều trăn trở

Với cương vị là Phó chủ tịch Hội Châm cứu thế giới, Viện trưởng Viện Châm cứu Việt Nam, được đi hội thảo khoa học và thỉnh giảng về đông y và châm cứu ở 47 nước trên thế giới, trực tiếp khám và chữa bệnh cho nhiều chính khách nước ngoài như: Tổng thống Tamaru Oscar (nước Tahiti), người thân của Tổng thống Mê-hi-cô, con trai của tổng thống Hút-xen... Nhưng ông vẫn đau đáu tâm nguyện được thành lập một “Trường đào tạo và ứng dụng châm cứu Việt Nam” có cả bệnh viện để sinh viên thực tập, nghiên cứu. Bởi theo ông, ngành châm cứu nước nhà tuy đã đạt nhiều thành quả được nhiều nước trên thế giới ca ngợi nhưng vấn đề đào tạo cán bộ phát triển các thành quả châm cứu như hiện nay còn nhỏ lẻ, chưa có đầy đủ cơ sở phổ cập. Mong muốn của ông là thành lập được 3 trường ở Hà Nội, Đắc Lắc và Kiên Giang để công tác đào tạo cán bộ và chữa bệnh được thuận tiện hơn.

 

GS Nguyễn Tài Thu sinh ngày 17-9-1930 ở xã Vân Canh, huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ), Hà Nội. Hiện nay ông đang giữ chức Phó chủ tịch Hội Châm cứu thế giới, Chủ tịch Hội Châm cứu Việt Nam, Viện trưởng Viện Châm cứu Việt Nam, Chủ tịch Hội cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam (1994-2012). Năm 1995, GS nhận danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân, năm 1999 được tặng Huân chương Lao động hạng Nhất, năm 2000 được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, năm 2005 được nhận Huân chương Độc lập hạng Nhì.  

Giữa tháng 10-2012 vừa qua, ông được vinh danh là công dân tiêu biểu của Thủ đô.

Bài và ảnh: LÊ BÌNH - CHÍ HÒA