Ông Nguyễn Ngọc Lược.

“Cuộc sống nhộn nhịp, hối hả khiến thế hệ trẻ dần xa với những làn điệu dân ca cổ, chỉ còn những lão nông như chúng tôi còn muốn trụ lại với làn điệu độc nhất vô nhị - Xa Mạc cổ. Một thời gian nữa khi thế hệ chúng tôi đi gặp tổ tiên thì không biết ai sẽ đứng ra gánh vác giữ gìn những giá trị văn hóa phi vật thể thiêng liêng này”. Đó là lời của ông Nguyễn Ngọc Lược – cán bộ ban văn hóa, văn nghệ xã Liên Mạc, Mê Linh, Vĩnh Phúc kiêm-"người gác đền" không công suốt gần 30 năm nay để bảo tồn một môn nghệ thuật truyền thống của vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Máu nghệ thuật nuôi dưỡng lòng ham mê

Mỗi một vùng miền tiếp nhận tinh hoa nghệ thuật chèo khác nhau tạo nên âm hưởng, vũ điệu khác nhau nhưng cùng chung một gốc tích bản thể của chèo Bắc Bộ. Lịch sử để lại cho kho tàng chèo Việt Nam một kho tài liệu khổng lồ đa dạng về thể loại, phong phú về sắc thái, phổ quát về địa bàn “sống”.

Ông Lược và các thành viên đội chèo làng Xa Mạc.

Khi thực mục sở thị về làng quê thuần nông Xa Mạc đang nuôi dưỡng làn điệu chèo cổ - hát Xa Mạc, được nghe các cụ già lọ mọ gần đất xa trời kể lại gốc tích của tên gọi Xa Mạc mà lòng thật tự hào. Ngày xưa, người ta thường hát Xa Mạc bên dòng sông, dưới cánh đồng rộng mênh mông. Bờ sông xa cách lắm nên chỉ giao duyên được với nhau qua tiếng hát thanh trong ngân xa nhờ làn gió gửi lời tâm tình tới bạn ca. Do khoảng cách xa, cộng thêm tiếng hát mang đậm tính chân chất của xóm làng nên được gọi bằng cái tên Xa Mạc (mạc là làng).

Người dân ở đây đang lo lắng cho số phận làn điệu hát chèo sẽ trôi dạt hay biến tướng làm mất đi cái chân chất thôn quê ẩn hiện trong những câu hát du dương kia thì bỗng dưng một người con của làng - ông Lược “dở chứng hâm” “lao đầu đi làm những việc chẳng đâu vào đâu”. Gạt tai mọi điều đàm tiếu về mình, ông Lược vẫn âm thầm như vốn tính của người nông dân, quyết là làm đến cùng. Sau đó, người ta thấy “chứng hâm” của ông được mọi người kính nể chỉ vì ông “hâm” đúng lúc, đúng nghiệp mà nhiều người khó có thể làm theo. Cái máu nghệ thuật của người cựu chiến binh năm xưa vẫn hun đúc thúc giục ông phải xắn tay áo vực dậy phong trào hát chèo đang ngày càng bị nhuốm màu phôi phai. Năm 1998, ông không ngần ngại bỏ 15 triệu đồng tiền túi để mua hệ thống âm thanh, ánh sáng, quần áo, đạo cụ cho đội chèo. Khi thấy các đội chèo khác cần, ông cũng sẵn sàng cho mượn không chút tính toán. Ông giải thích: "Tôi mê nó quá, tôi sắm trang thiết bị không phải để được khen trên đài phát thanh xã là "ông Lược có một tấm lòng phúc đức mua đạo cụ cho đội chèo" hay để được nhận bằng khen. Với số tiền đó cách đây 10 năm tôi có thể mua hẳn một miếng đất ngoài quốc lộ, giờ bán có mấy trăm triệu đồng trong tay. Tôi trăn trở nhiều đêm và quyết định mang tiền mua đạo cụ. Giờ tôi “giàu” lắm, “giàu” gì chắc các chú cũng biết”.

Ông đi bộ đội 7 năm - năm 1979 xuất ngũ về công tác tại ban văn hóa văn nghệ xã. Suốt gần 30 năm ròng “ăn, ngủ” với chèo cổ, hồn vía nó đã ngấm vào máu ông lúc nào không hay. Hồi phục vụ tại Trung đoàn 205 (BTL Thông tin), ông đã "có số có má" với các bậc liền anh, liền chị với tài hát đối đáp. Về hưu, thấy ở làng quê có làn điệu hát Xa Mạc nổi tiếng trong vốn cổ dân ca chèo, ông quyết định xây dựng và duy trì đội chèo của làng cho tới nay. Ông thổ lộ: "Tôi là tôi theo cái môn này đến khi xuống hố. Các chú thử tưởng tượng cảnh trẻ con sinh ra tại quê hương của chèo cổ mà cứ véo von mấy bài nhạc trẻ trên truyền hình, băng đĩa thôi. Không phải tôi phê phán chúng, nhưng trước hết hãy thuộc, hãy hiểu, hãy cảm cái làn điệu cha sinh mẹ đẻ này đã. Không thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu phục vụ quần chúng thì kiểu gì cũng mai một".

Cũng giống như các làng quê khác, hội làng Xa Mạc diễn ra vào mùa xuân hằng năm là dịp tốt để các thế hệ con cháu trong làng ôn lại truyền thống và cùng nhau ngân lên những lời ca ngọt ngào đằm thắm ca ngợi quê hương, đất nước, cuộc sống xã tắc và tình cảm đôi lứa... Ông Lược còn là đạo diễn, viết kịch bản hơn 40 bài Xa Mạc cổ được bà con đón nhận như những đứa con tinh thần của một lão nông có nửa đời người làm nghệ thuật.

Nhà ông lúc nào cũng vui như Tết. Đây là điểm hẹn để các bác, các chú "hai nắng một sương" ngày lam lũ ngoài đồng, khi cơm nước đã tươm tất lại đến luyện tập vì thôn chưa có nhà văn hóa. Ai có nhu cầu học hát ông sẵn sàng dạy không lấy tiền, chủ yếu người học phải có tâm và say mê. Ông cũng được ban văn nghệ phường 13, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh mời vào thỉnh giảng và diễn phục vụ quần chúng. Ông coi đó là một vinh dự cũng là trách nhiệm phải làm sao để quảng bá rộng rãi hơn nữa làn điệu chèo cổ đi đến mọi miền Tổ quốc.

Ông còn sưu tầm và bảo tồn nguyên vẹn làn điệu Xa Mạc của làng. Trong ngăn tủ thuốc đặt ở gian giữa lúc nào cũng kèn kẹt mở ra mở vào bởi đó là nơi lưu giữ một đống tài liệu dầy cộp về các mặt muôn màu của làn điệu chèo cổ kia. Ông đã tìm gặp các vị thái lão để ghi chép và ghi âm cẩn thận hàng trăm lời cổ, từ lối hát ví, hát vỉa, hát giao duyên trên thuyền giữa sông, lúc cày cấy ngoài đồng, lúc kéo kén quay tơ, khi lễ hội trước sân đình. Hiện ông có 5 người con và gần chục đứa cháu đều say mê làn điệu chèo cổ này. Từ cụ nội Nguyễn Văn Lộc đến các cháu hiện nay là 4 đời người quyến luyến với hát Xa Mạc.

Ai sẽ tiếp bước cha anh?

Hiện đội chèo của làng chỉ vỏn vẹn gần 20 người, tuổi đời đã ngoại tứ tuần cả. Một vài cụ tuổi 70, 80 như cụ Thọ, cụ Bính móm mém cũng trùm khăn len ấm đến nhà ông Lược luyện hát.

Hôm chúng tôi đến gặp ông cũng là ngày một cụ ông là “cây đa, cây đề” có thâm niên qua đời. Tiếc thương người ra đi một, ông Lược tiếc thương cho sự thâm hụt nhân lực mười, để cùng ông cổ xúy cho thứ nghệ thuật độc tôn này. Tre đã già nhưng măng chưa mọc. Ông chỉ trông mong vào cháu Nguyễn Văn Hà, đang học năm thứ nhất khoa Chèo dân tộc, Đại học Sân khấu Điện ảnh. Bởi em sẽ học bài bản nghệ thuật chèo và hy vọng sẽ là "cây măng" nối nghiệp ông Lược. Em kể: "Về làng được hòa mình luyện hát với các cô các chú thích hơn vì mình được nghe, được thấy, được cảm nhận cái cốt của các động tác uyển chuyển, độ luyến láy câu chữ đạt đến độ tinh tế. Ở trường đâu được học những thứ tỉ mỉ như thế. Với lại cái cần nhất để có một giọng ca chuẩn không gì bằng nhập làng với những người đang ngày đêm sống trọn vẹn với làn điệu Xa Mạc cổ này".

Thế hệ tuổi con ông đã có những suy nghĩ như vậy thì hy vọng bảo tồn làn điệu dân ca này đã có những tín hiệu đáng mừng. Bác Nguyễn Hà Thành giãi bày: "Có hôm ngại chồng con quá, bảo đi sang nhà hàng xóm chơi nhưng thực chất là í ới kéo nhau sang nhà ông Lược. Làm nông vất vả nhưng vẫn say hát, hễ rỗi rãi lại tụ tập trên manh chiếu. Hăng nhất là có cá nhân hay tổ chức nào mời dự thì còn say hơn, có hôm tập luyện đến 12 giờ đêm để kịp chương trình".

Gác lại những buồn vui bên lời kể của ông Lược, một bác cất cao tiếng hát trầm ấm làm không khí trong phòng khách nhà ông “mát dịu” hẳn: "Hỡi cô mà thắt bao xanh/Có về Xa Mạc với anh thì về/Xa Mạc cũng có cây đề/Có hoa thiên lý có nghề ươm tơ".

Đó là câu hát du dương mời mọc những bước chân về với nơi chôn nhau cắt rốn của làn điệu chèo Xa Mạc cổ.

Người dân nơi đây lúc nào cũng hát. Hát là cuộc sống. Cuộc sống luôn trôi chảy nên tiếng hát cũng đi vào đời sống như một dòng sữa tinh thần nuôi dưỡng bao thế hệ con người Việt Nam. Hát làm trôi đi mỏi mệt. Tiếng hát làm thời gian trôi nhanh hơn. Mỗi kiếp người sinh ra đều được các bà, các mẹ ấp ủ bằng những lời ca thấm đẫm tình yêu thương. Chính cái "thuốc mê" đó đã làm lão thuần nông có dáng dấp như một trí thức như ông Lược ngày đêm tận tâm với hát Xa Mạc cổ.

Bài và ảnh: Đức Chính – Văn Chung