Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ

Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha.

QĐND - Chứng kiến sự hắt hủi của đứa con đối với người cha già yếu, lời Phật dạy thêm cứa sâu vào tâm hồn cô bé 10 tuổi. Và 15 năm nay, giữa lòng thành phố ồn ã, ngôi chùa Lâm Quang (TP Hồ Chí Minh) là chốn nương tựa yên bình của gần 300 cụ già neo đơn, tật nguyền. Trụ trì ngôi chùa ấy là cô bé năm xưa - ni sư Thích Nữ Huệ Tuyến.

Lời nguyện dưới chân Bồ Tát

Tôi tìm về ngôi chùa nằm sâu trong con hẻm trên bến Bình Đông của phường 14, quận 8, TP Hồ Chí Minh. Cây bồ đề trước cửa chùa tỏa bóng xanh mát cả khoảng sân trưa hè tháng 8. Khi tôi đến cũng là lúc ni sư đang tất bật lo bữa ăn tối cho các cụ. Gặp ni sư, không phải riêng tôi mà nhiều người khách đến đây đều hết sức ngạc nhiên: Người vận áo nâu sồng mộc mạc, ngồi nhặt từng cọng rau, thái từng củ quả… là vị trụ trì của ngôi chùa này! Chúng tôi thắc mắc: Sao sư trụ trì mà làm những công việc đó? Người ni sư có khuôn mặt phúc hậu chậm rãi đáp: “Dù bận rộn thế nào, tôi cũng muốn tự tay lo cho các bậc cao niên. Các cụ đã khổ nhiều rồi, giờ tuổi cao sức yếu chỉ biết nương tựa vào mình. Phật đã dạy: Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật. Là trụ trì, tôi càng khắc cốt ghi tâm lời răn đó”.

Ni sư Thích Nữ Huệ Tuyến tục danh là Lê Ngọc Lịch, sinh năm 1964 tại Cam-pu-chia trong một gia đình có truyền thống Phật pháp. Năm 6 tuổi, ni sư quy y tại chùa An Phú (phường 10, quận 8, TP Hồ Chí Minh). Ngày ấy, ngoài việc phụng dưỡng các tu sĩ già trong chùa, sư phụ cô còn đem những cụ già neo đơn, tật nguyền… về chùa chăm sóc. Cô bé Huệ Tuyến từ đó đã sớm chứng kiến, tiếp xúc với những phận đời éo le, bất hạnh. “Một hôm, sư phụ đưa về một cụ ông bị liệt, toàn thân lở loét, ứ mủ và bốc mùi hôi nồng nặc. Đứa trẻ như tôi lúc ấy cảm thấy ghê sợ con người như thế. Nhưng ngày ngày, nhìn sư phụ tất bật lo cơm nước, vệ sinh cho cụ như con cháu hiếu thảo, tôi cảm phục sư phụ vô cùng. Từ đó, tôi xin được chăm sóc cụ để đỡ đần sư phụ phần nào” - ni sư nhớ lại.

Bàn tay ân cần của ni sư Thích Nữ Huệ Tuyến chăm lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho các cụ già.

Và hoàn cảnh của cụ già ấy đã khiến tâm hồn cô bé 10 tuổi mang nặng nỗi đau nhân thế. Trở về sau những đòn tra tấn tàn khốc của Mỹ-ngụy, cơn nhức nhối của những vết thương đang hoại tử trên thân thể không làm người tình báo năm xưa đớn đau bằng sự hắt hủi, đối xử tàn tệ của những đứa con. Họ gửi cụ vào chùa, mặc kệ sự sống chết của cha mình. Ngày ngày, cô bé Huệ Tuyến chăm sóc và xem cụ như người ông đáng kính. Nhớ về con, nước mắt người cha bất hạnh ấy lại ứa ra. Vừa lau nước mắt cho cụ, cô bé vừa khóc theo. Ngày cụ từ giã cõi trần, cô quỳ trước Bồ Tát, nguyện kiếp này xin được chở che, cưu mang những mái đầu bạc; lau đi giọt nước mắt đau thương trên khóe mắt người cha, người mẹ bất hạnh.

Dẫn tôi vào thăm các cụ bị bại liệt, ni sư chậm rãi kể: “Năm 1996, tôi được Thành hội Phật giáo thành phố bổ nhiệm trụ trì chùa Lâm Quang. Đây vốn là nơi che mưa, che nắng qua ngày của một số cụ già lang thang ăn xin. Về chùa, tôi hiểu đây là cơ duyên cho lời nguyện, nên nói với các cụ rằng: “Từ nay, các cụ cứ coi đây là nhà, coi chúng con là con cháu. Mình có gì ăn nấy, nhưng nhất định các cụ không được đi ăn xin nữa”.

Từ đó, ni sư cùng đệ tử đi tìm các cụ già lang thang đầu đường xó chợ, hoặc trong các bệnh viện không có người chăm sóc, đưa về chùa. Có cụ do phật tử giới thiệu, có cụ do người qua đường đưa đến.

Những ngày đầu, chùa gặp không ít khó khăn. Để có tiền nuôi các cụ, ni sư cùng đồ đệ phải làm nhiều việc, từ dệt chiếu, làm nhang đem bán đến nấu cơm chay, nhận đặt tiệc… Rồi cứ mỗi lần mưa to gió lớn, ni sư lại phấp phỏng lo lắng vì nền chùa thấp, mái ngói cũ kỹ khiến nước ngập, dột khắp nơi. Nhiều lần bất chấp mưa gió, thầy trò vừa trông nom các cụ vừa chở xà bần về đắp nền nhà. Mấy năm gần đây, nhờ sự đóng góp của các nhà hảo tâm, ni sư cho xây dựng lại chùa khang trang hơn. Chùa cũng vừa mới xây xong một dãy nhà mới để có thêm chỗ nuôi dưỡng, chăm sóc cho số lượng cụ già về chùa ngày càng tăng.

Hiện chùa đang nuôi dưỡng 116 cụ, trong đó có 32 cụ bị liệt, không thể tự phục vụ sinh hoạt cá nhân. Hầu hết các cụ đều rất yếu và lẩn thẩn. Cao tuổi nhất là cụ bà Vương Trân, 93 tuổi. Khoảng 150 cụ đã mất, được hỏa táng và cất giữ hài cốt trong phòng thờ.

Sau chánh điện nhỏ hẹp là nơi ăn nghỉ của các cụ, chia làm 3 khu: Một khu dành cho các cụ bị bại liệt, hai khu còn lại dành cho các cụ có thể tự chăm sóc bản thân. Vừa thấy bóng dáng ni sư bước vào, những tấm thân già yếu, gầy gò trên giường bỗng khẽ cử động, đôi mắt mờ đục lấp lánh niềm vui. Có cụ tự dưng bật khóc rưng rức. Có cụ gượng dậy, reo lên như một đứa trẻ: “Má đây, con ơi”. “Mèn đét ơi, con nó lên thăm tui nè”… Khẽ sà vào một bà cụ nãy giờ nằm đưa tay vẫy mình, ni sư hỏi: “Má có đói bụng hông? Con đút sữa cho má nha”. Bà cụ gật đầu, đôi tay gầy gò run run nắm chặt bàn tay người con mặc áo nâu sồng.

“Ai còn mẹ xinh đừng làm mẹ khóc…”

Mỗi mái đầu bạc nương tựa nơi đây là một số phận, một câu chuyện đau xót của nhân tình thế thái. Buổi sáng mùa thu cách đây 6 năm, một bà cụ già yếu, ăn mặc rách rưới được dẫn đến chùa. Bà ôm khư khư bọc áo quần, khóc cười ngặt nghẽo, ai hỏi gì cũng lao vào đánh chửi. Bà không nhớ gì, kể cả tên mình. Ni sư đặt tên cho bà là Hiền, mong cái tên xoa dịu sự giận dữ đau thương của người mẹ bất hạnh. Đến nay, nhờ sự chăm sóc của nhà chùa, sức khỏe của bà Hiền ngày càng khá hơn.

Chăm sóc người già đã khó, chăm sóc người già tâm thần, tật nguyền còn khó khăn gấp vạn lần. Có cụ bị lẩn thẩn, mỗi lần đến giờ ăn, giờ tắm thì bảo tui ăn rồi, tắm rồi. Nhiều lúc đang tắm, có cụ hất nguyên xô nước khiến ni sư ướt sũng cả người. Nhưng lúc ấy, ni sư chỉ cười, năn nỉ mong mấy cụ ngồi yên. Để tiện chăm sóc các cụ lúc trái gió trở trời hay đêm hôm khuya khoắt, ni sư quyết định đặt chiếc ghế bố - chỗ ngủ của mình, nằm gần khu nghỉ ngơi của các cụ. Có những đêm mưa, các cụ lên cơn bạo bệnh, nhà chùa lại xa bệnh viện nên không kịp chữa chạy. Nhìn các cụ ra đi trên tay mình, ni sư đau đớn bật khóc. Vì vậy, nhà chùa đã cử 2 sư cô đi học điều dưỡng nhằm chăm sóc cho các cụ tốt hơn.

Bón từng muỗng sữa cho cụ Năm, ni sư tâm sự: “Để trò chuyện với các cụ, đôi khi chúng tôi phải đóng vai người thân của họ. Có lúc, tôi là con Hoa, là cô Phượng, có lúc là cháu Thắm, dì Bảy… Những lần như thế, tôi hiểu các cụ cô đơn và cần hơi ấm tình thân đến mức nào”.

- Chăm sóc các cụ khó khăn đến thế, sao ni sư làm được? Tôi hỏi.

Ni sư mỉm cười:

- Quan trọng là cái tâm. Tâm vững thì việc gì dù khó khăn đến mấy mình đều vượt qua.

Thăm chùa, không ít người nói nhỏ với ni sư: Các cụ đều gần đất xa trời, còn sống được mấy năm nữa mà chùa nuôi cho tốn công tốn của. Nghe vậy, lòng ni sư Thích Nữ Huệ Tuyến quặn thắt. “Tuổi xế chiều của đời người, ai cũng mong mình có nơi nương tựa. Tôi mong các cụ neo đơn, tật nguyền… cũng thanh thản khi bóng xế cuộc đời. Các cụ như cha mẹ tôi. Đó là đạo hiếu uống nước nhớ nguồn mà con cháu chúng ta phải làm” - giọng ni sư ngậm ngùi.

Đến bây giờ, ni sư vẫn không quên lời nói của một bà cụ cách đây 14 năm: “Con ơi, khi nào má chết, má chỉ mong được nằm trong cái hòm thiệt đẹp, thiệt ấm, vì dưới đó lạnh lắm”. Nghe bà cụ nói vậy, ni sư Thích Nữ Huệ Tuyến trào nước mắt. Đó là tâm nguyện nhỏ nhoi cuối cùng của các cụ khi về cõi an lạc.

Bà Hoàng Thị Xê (76 tuổi) về nương tựa cửa chùa đã được 6 năm. Bà bị liệt, không chồng, không con. Nói về ni sư Thích Nữ Huệ Tuyến bà rơm rớm nước mắt: “Nhờ ni sư, tui mới sống đến ngày hôm nay. Ở đây tui mới có người chăm sóc, bầu bạn; không còn cực khổ, vất vưởng như trước nữa”.

Nhìn dáng tất bật của ni sư, giọng sư cô Diệu Sơn đầy cảm phục:

- Ni sư là Bồ Tát sống. Vì các cụ, công việc dù vất vả đến đâu ni sư cũng cáng đáng. Có lần, vết thương của một cụ đòi hỏi phải cắt bỏ phần thịt chết mới băng bó được, đệ tử tụi tui không ai đủ can đảm để làm. Vậy mà ni sư làm rất bình tĩnh. Lúc ấy, tôi hiểu, tâm sáng của ni sư đã giúp người vượt qua thử thách trần tục.

Cảm phục trước tấm lòng của ni sư, hơn 15 người đã phát tâm ở lại chùa phụng sự chúng sanh. Ngoài các nhà hảo tâm và còn có Bệnh viện 115, Bệnh viện Nguyễn Trãi đến hỗ trợ khám bệnh cho các cụ hằng tháng.

Thay lời kết

Phải thuyết phục ni sư khá lâu tôi mới thực hiện được bài viết này. Bởi ni sư bảo rằng, việc mình làm tự cái tâm mình biết, chứ không muốn mọi người ca ngợi.

Tôi chào ni sư ra về khi bóng cây bồ đề đổ dài trước cửa chùa. Trong nắng chiều vàng vọt, tôi như nghe lời nhắn nhủ của ni sư còn vang vọng trên nẻo về:

“Đường lăn của giọt nước trước sẽ là đường lăn cho giọt nước sau. Mong những ai còn cha, còn mẹ hãy trân trọng đấng sinh thành và xin nhớ lấy câu: Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc/ Đừng để buồn trên mắt mẹ nghe không”.

Bài và ảnh: QUỲNH NGA