QĐND - Gọi Trung “liên lạc” để phân biệt với cậu Trung “triết lý”, quê Hà Tĩnh ở Trung đội 3, thuộc Đại đội 2 chúng tôi. Khi tôi được điều về làm văn thư đại đội, anh Hai Quang, Chính trị viên trưởng, quê Trà Vinh, giới thiệu Trung với tôi. Trung cười thật hiền, nụ cười vương chút bẽn lẽn của cậu thanh niên miền Tây Nam Bộ mới lớn… Sau này hỏi ra mới biết, Trung năm ấy mới tròn 17 tuổi mà đã tham gia chiến đấu cùng đơn vị gần hai năm. Bàn tay trái của em cụt mất một ngón giữa; khuôn mặt đầy lông non tơ còn vương mấy mụn trứng cá hồng hồng…

Minh họa: Mạnh Tiến.

Tháng 8-1975, đơn vị chúng tôi được lệnh hành quân ra các đảo thuộc vùng biển Tây Nam của Tổ quốc. Con tàu đưa đoàn quân “lính bộ đánh thủy” băng băng ra phía ngoài khơi Phú Quốc. Chỉ một thời gian ngắn, bọn lính Pôn Pốt bị quét sạch, các đảo vùng biển Tây Nam được giải phóng.

Sau những giờ luyện tập, tôi và Trung thường vào rừng trên đảo chặt củi, tìm kiếm thứ lá gì có thể ăn thay rau. Cá ở đảo ăn riết rồi ngán, ai cũng thèm rau xanh. Rau ở đảo hầu như không có; chờ tàu từ Phú Quốc chở ra thì có bí đỏ, bí đao và những bó rau muống chỉ còn lại cọng…

Có hôm, Trung tinh mắt phát hiện ra cây lá lụa đang mùa trổ lá non. Thiệt tình trời thương nên hai anh em hái mỏi cả tay, ôm nặng hai bao mang về. Điều kỳ lạ là giữa trùng khơi lại có cả cây sấu, trái rụng vàng quanh gốc. Cây sâm cau mọc đầy cả vạt rừng (hệt như cây cau, cao chừng nửa thước, nhổ lên là cả một chùm củ). Phơi khô củ rồi sao vàng hạ thổ, nấu nước uống thì khỏe tuyệt vời…

Tạm biệt những hòn đảo tiền tiêu vùng biển Tây Nam, cuối tháng 9-1975, chúng tôi nhận được lệnh hành quân về đất liền. Tiếp đó là những tháng ngày hành quân dã ngoại; cùng ăn, cùng ở, cùng làm với người dân miệt vườn, miệt ruộng. Sau đó, cả đơn vị về đồng Cờ Đỏ (thuộc huyện Thốt Nốt, tỉnh Hậu Giang) vừa huấn luyện, vừa làm ruộng. Những ngày ở đồng, đơn vị dựng lều ở dọc bờ kênh lồng lộng gió. Vừa thu hoạch lúa xong, thực hiện lệnh khẩn của cấp trên, toàn trung đoàn theo đội hình sư đoàn hành quân cấp tốc về biên giới Tây Nam. Chúng tôi tiến sát biên giới giữa Việt Nam và Cam-pu-chia thuộc tỉnh An Giang. Nơi đây, cuối tháng 4-1977, bọn phản động Pôn Pốt đã phát động tấn công trên toàn tuyến biên giới; gây ra vô vàn tội ác đối với đồng bào vùng biên giới thân thương.

Rạng sáng 7-5-1977; đơn vị chúng tôi thực hiện nhiệm vụ đánh chiếm lại vùng đất biên giới bị bọn Pôn Pốt lấn chiếm trái phép. Khoảng 3 giờ sáng, toàn đại đội tiến sát trận địa bọn Pôn Pốt nằm bên kia sông. Tất cả đào hầm tránh pháo vì đơn vị pháo binh phối thuộc sẽ bắn dọn đường khoảng 30 phút vào trận địa Pôn Pốt. Hầm hào vừa xong thì tiếng pháo đề-pa và từng loạt pháo nổ ầm ầm, khói lửa bay lên đỏ rực cả góc trời… Lệnh xung phong phát ra. Trung nhanh nhẹn, tay cắp chắc chắn khẩu súng, tay cầm mái chèo chạy nhanh xuống bờ sông. Lúc này, bọn Pôn Pốt kháng cự quyết liệt. Từng loạt đạn bay vèo vèo ngay trên đầu. Mặc chúng bắn, vì bờ sông cao nên chiếc xuồng chở ban chỉ huy cùng xuồng của chúng tôi áp sát bờ mà không bị trúng đạn.

Hướng tiến công của Đại đội 2 vấp phải dãy giao thông hào chắn ngang phía trước. Trong sa bàn tác chiến không có tình huống này. Có thể, đây là dãy hào mà bọn giặc vừa bổ sung. Từng ổ đề kháng với khoảng cách cứ 10 thước một khẩu đại liên đạn bắn sàn sạt làm chúng tôi không thể ngẩng đầu lên được. Trung trườn lên với nhiệm vụ bảo vệ anh Tư Việt và sẵn sàng nhận lệnh chỉ huy.

Oái ăm thay, anh Linh “thông tin” lại bị trúng đạn ngay giữa lòng bàn tay phải, máu chảy thấm mấy lần băng. Liên lạc với phía sau, với đơn vị bạn tức thời bị gián đoạn. Đạn nổ tứ bề, không còn phân biệt được đâu là súng mình hay súng Pôn Pốt nổ. Trước tình thế vô cùng nguy hiểm, Trung bò lên gần dãy hào giao thông, bắn từng loạt vào ổ đại liên gần nhất. Khẩu đại liên của giặc câm bặt. Trung lăn mấy vòng về vị trí anh Tư Việt để báo cáo. Bỗng một ánh chớp lóe lên cùng tiếng nổ dữ dội. Quả đạn B41 của kẻ thù đã làm anh Tư Việt và Trung hy sinh. 

Cũng vừa lúc ấy, phía bên phải đại đội đã chiếm được hào giao thông. Bọn lính Pôn Pốt bỏ chạy, số bỏ mạng nằm dài dọc chiến hào. Chúng tôi xông lên, chiếm được trận địa và tập hợp lực lượng. Thi thể anh Tư Việt và Trung được dân công đưa về phía bên kia sông. Nhìn Trung và anh Tư Việt được gói vào bao ni-lông, tôi và đồng đội không cầm được nước mắt.

 Hơn 30 năm đã trôi qua, nhưng hình ảnh Trung vẫn còn hiển hiện trong tôi. Hình ảnh của một cậu bé hiền lành, thường hay mắc cỡ khi bị chọc ghẹo trở nên ám ảnh. Lòng quả cảm của em vẫn được đồng đội nhắc mãi, nhất là những dịp tụ họp trong ngày hội của đơn vị cũ Đại đội 2…

LÊ ĐỨC HỒNG