 |
Ama Nhơn trong ngôi nhà sàn "bản địa". |
Sinh ra và lớn lên trên vùng đất thấp trũng, nắng thì bụi gió, mưa lại bị ngăn cách như ốc đảo bởi các con sông, con suối, người lớn đi lại làm ăn đã khó khăn, con trẻ tới lui học hành càng khó khăn gấp bội; nhiều đêm nằm nghe tiếng gió rít mang theo hơi lạnh qua các khe hở của ngôi nhà, ông Nay Yak ở xã Ia Piar, huyện Ayun Pa (Gia Lai) đã quyết định gom góp hết tiền bạc làm cầu bắc qua suối, thực hiện cuộc "di dân" kinh tế và tiếp tục "đưa dân làng" bước qua lời nguyền...
Chuyện học, chuyện đời...
Từ thành phố Pleiku, sau hơn 3 giờ đi xe máy, chúng tôi đến thăm gia đình ông Nay Yak (Ama Nhơn). Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ, Ama Nhơn thân mật kể lại quãng thời gian từ lúc là cậu học trò "dân đen" hằng ngày được mấy củ khoai vào bụng, rồi cứ thế miệt mài theo học, với một ước mơ rất đơn giản "học nhiều cái chữ để được về phố". Ông nhớ lại: Lúc đó ở làng chuyện học hành người ta không hề chú ý tới, vì dân mình lâu nay có ai đi học, mà học cũng để làm gì? Riêng ông quyết định đi học và đó là chuyện thứ nhất hy hữu của người Jrai lúc bấy giờ. 10 năm sau Ama Nhơn học hết lớp 10 rồi thi đỗ vào Trường Trung cấp Kỹ thuật công chánh ở Sài Gòn...
Không dừng lại ở đó, Ama Nhơn tiếp tục "dùi mài kinh sử", khi cầm được tấm bằng kỹ sư trong tay cũng là lúc Ama Nhơn bị chính quyền nguỵ bắt đi lính và được phân bổ về làm cán bộ kỹ thuật. Hai năm sau chúng bổ nhiệm ông làm chức Phó Trưởng ty Công chánh tỉnh Phú Bổn cũ (nay thuộc thị xã Ayun Pa, Krông Pa). Học xong, nhưng công việc không như ý muốn, buồn cái bụng nhiều lắm, nhưng chống lại cũng không được. Khi ấy Ama Nhơn nghĩ: "Thế cũng được, làm cái nghề này có hại ai đâu? Vả lại biết đâu có điều kiện giúp đỡ bà con mình". Và thực tế từ lúc vào "cửa quan" ông đã làm được nhiều việc tốt cho đồng bào, nhất là các gia đình có con em theo cách mạng bị địch bắt đánh đập tra tấn... đã được ông giải thoát, trở về tiếp tục hoạt động cách mạng và có điều kiện xây dựng, mở rộng hậu phương "cộng sản" vững mạnh trong vùng địch hậu.
"Làm quan" được hai tháng, thì các địa bàn ở Tây Nguyên nói chung, Gia Lai và huyện Ayun Pa được giải phóng. 10 ngày sau khi huyện Ayun Pa sạch bóng quân thù, Ama Nhơn đã tự nguyện ra "trình diện" trước chính quyền và bà con dân làng, để chứng tỏ cái đầu của mình vẫn sáng, cái bụng của mình vẫn tốt. Ông bỏ qua những lời mời gọi, những lá thư, những cú điện thoại đường dài "thân mật" của các tổ chức... ngỏ ý bảo lãnh sang một số nước phương Tây sinh sống cho "sung sướng". Bởi trong ông chỉ có nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam và bà con làng bản mình mới thực sự thương yêu nhau và sống hạnh phúc...
Chuyện làm cầu và trồng lúa nước
Chiến tranh đi qua, ông cùng gia đình trở về nơi làng nhỏ ngày xưa cùng dân làng chung sống. Nhưng làng quê ông còn nghèo quá, nhìn tới, nhìn lui cũng chỉ thấy những mái nhà tranh nghèo thấp lùn bên rẫy nhỏ, cả làng chỉ hơn 45 hộ dân (gần 350 nhân khẩu) bị chia cắt bởi các con suối; trong làng tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu: Lệ tục chôn chung; khi ốm đau thì mọi người trong làng thuê thầy cúng; người và heo, bò đều ở chung, bệnh tật lây lan, trẻ em 10 đứa, thì có 6-7 đứa suy dinh dưỡng, không biết đọc, không biết viết; người già thì ngày ngày co ro trong vách nhà "đầu gối quá tai" nghĩ về "A Tâu" (sống với ông bà, thế giới của những người đã chết). Chưa đến mùa thu hoạch, nhưng "cái bụng" các chòi lúa thì đã lép kẹp. Ama Nhơn thương dân làng nhiều, thương bọn nhỏ cũng lắm, nhưng nghĩ mãi mà vẫn chưa ra lối thoát. Cuối cùng, "cây cầu" - công việc đầu tiên để đưa trẻ em đến trường, học được cái chữ con số, đưa người lớn vào nương, vào rẫy làm ăn thoát nghèo đã hình thành trong đầu và Ama Nhơn quyết tâm thực hiện.
Nhưng không phải cái gì nghĩ ra và thực hiện là dân làng đồng ý ngay. Ngày Ama Nhơn thông báo chuyện làm cầu qua suối, cả làng ngồi nghe và nhiều người phản đối: "Người Jrai mình, xưa nay đi bộ, lội suối là chuyện thường, thằng Ama Nhơn bày đặt chuyện làm cầu là không được, trái với ý Yang, trái với tập tục, Yang phạt cả làng phải đói khổ, người già qua cầu, trẻ em qua cầu chắc rớt xuống suối không chết cũng bị thương, không được đâu...".
Để làm được chiếc cầu, ngày đêm Ama Nhơn lặn lội đến từng gia đình trong làng để vận động bà con hiểu được vị trí, ý nghĩa của cây cầu trong cuộc sống, nó thực sự là điểm nối để "giao thương" hàng hoá. Vừa vận động bà con, Ama Nhơn vừa động viên vợ bán một số vật dụng trong nhà để lấy tiền mua sắt thép, đinh, ximăng đóng trụ... vừa động viên, lôi cuốn một số thanh niên trong làng vào rừng chặt cây đem về và tự tay ông thiết kế làm một cái cầu gỗ bắc qua suối Ayun (cầu dài hơn 30m). Một tháng, rồi hai tháng trôi qua, cây cầu đã hoàn thành vững vàng trên dòng nước. Ngày "lễ" thông cầu, dân làng từ trẻ nhỏ đến người lớn không thiếu một ai, nét mặt mọi người vui như hội. Rượu, gà, heo được các hộ tự nguyện mang đến nhiều lắm để cùng nhau đốt đuốc, dâng hương, nổi cồng chiêng thành kính báo với Yang về thành quả của cây cầu "lịch sử".
Có được chiếc cầu đã là một thành công lớn, nhưng chưa đủ, tập tục lao động của bà con người Jrai vùng Ayun là du canh, du cư với phương châm " chặt, đốt, tỉa, trồng", rừng núi ngày càng thu hẹp, đất đai bạc màu, đường đi làm mỗi ngày cứ dài ra mà cuộc sống vẫn chưa hết khổ. Ama Nhơn quyết định "ra phố" học cách "lao động" và đi đầu trong phong trào trồng lúa nước, trồng mía, trồng mì, trồng cây ngắn ngày xen kẽ cây dài ngày, rồi nuôi heo, nuôi bò lấy phân bón ruộng... Đây cũng là chuyện "động trời", chuyện hy hữu thứ hai trong vùng, vì xưa nay ở đây chưa có ai dám làm, nhiều người nghi ngờ và ngăn cản, thậm chí có người đòi phạt 3 con bò vì "thằng Ama Nhơn" làm bậy, chọc tức Yang... Không nản, ông cứ làm và nhà Ama Nhơn đầy lúa, no đủ, có được nhiều tiền thu từ bán bò, heo và một số cây trồng khác. Dân làng thấy Ama Nhơn làm đúng, kéo tới học tập và làm theo, chẳng bao lâu sau, cả làng nhà nào cũng trồng lúa nước và các cây "công nghiệp" khác, no đủ đã đành mà nhiều nhà mỗi năm thừa tới hơn chục triệu đồng gửi tiết kiệm là chuyện xưa nay hiếm của bà con người Jrai ở đây.
Đưa dân làng đi qua hủ tục
Chuyện người dân Jrai bỏ nơi ở gắn bó ngàn đời và qua nhiều thế hệ để theo Ama Nhơn ra đường làm kinh tế đã là chuyện "xưa nay hiếm". Nhưng còn chuyện vận động dân làng bỏ đi "lệ tục chôn chung" - một hủ tục lạc hậu kéo theo nhiều bệnh tật, chết chóc trong đời sống đồng bào mới là chuyện đáng ghi nhận. Chuyện chỉ có Ama Nhơn mới làm được.
Theo tục lệ ở đây, người dân Jrai khi chết được chôn chung "một nấm mồ", người chết trước nằm dưới người chết sau và cứ thế, bao nhiêu người dân xấu số nêm chặt trong một cỗ quan tài. Có những người vừa mới về với A Tâu chưa đầy 10 ngày, thân thể chưa bị phân huỷ thì không may người sau bị chết, dân làng lại "bật nắp" lên và đưa thêm vào... Mùi hôi thối cùng với những vi trùng bệnh có điều kiện tán phát, đó cũng là một nguyên nhân làm cho dịch bệnh lây lan. Thương đồng bào, thương những đứa trẻ xấu số chết đi vì môi trường sống bị ô nhiễm, Ama Nhơn quyết định làm cuộc vận động "đưa người chết ra nghĩa địa" và bỏ đi lệ tục chôn chung.
Ông kể: "Lúc đầu, cả làng nhao nhao đòi phạt mình 5 con bò vì "vi phạm" lời nguyền vạn kiếp của ông bà để lại". Phạt thì cứ phạt, nhưng Ama Nhơn vẫn không bỏ cuộc và cứ làm tốt công tác "vận động tuyên truyền". Mưa dầm thấm lâu, họ thấy Ama Nhơn "vi phạm lời nguyền" đã dài ngày mà không thấy Yang phạt gì, dân trong làng không ai ốm đau, trâu bò vẫn sinh nở, lúa tốt, bắp nhiều hạt, con hoẵng, con chuột không đến phá... cuộc sống của đồng bào thay đổi, no đủ, bệnh tật lui dần, hủ tục lạc hậu đã không còn.
Ama Nhơn, thằng "chọc tức Yang" đã giúp dân làng làm được nhiều thứ, uy tín của ông ngày càng lớn, tên tuổi của ông được nhiều người Jrai, Banar trong vùng biết đến. Tên của ông được dân làng lấy đặt tên cho chiếc cầu (cầu Ama Nhơn) và cũng lấy đặt tên cho làng (làng Ama Nhơn). Vinh dự hơn, ông còn được dân làng bầu giữ chức già làng, được chính quyền địa phương bầu làm Chủ tịch Hội Người cao tuổi và làm thêm Tổ trưởng tổ hoà giải của hai làng (làng Ama Nhơn và làng Chrung), Chủ tịch Hội Nông dân kiêm Trưởng ban Định canh định cư của xã... Một tin vui nữa đến, theo báo cáo mới nhất đến hôm nay, làng Ama Nhơn đã có 80 hộ (gần 450 khẩu), nhiều con cháu của làng được học hết cấp III, có cháu đang học cao đẳng, đại học, trung cấp... Hơn 50% số hộ có xe máy, 100% hộ có điện thắp sáng, 90% số hộ có tivi... Thu hoạch một năm của gia đình ông lên đến trên 30 triệu đồng và trong làng có trên 30 hộ cũng thu nhập từ 30 - 40 triệu đồng một năm sau khi đã trừ các khoản chi phí. Những lệ tục lạc hậu cũng dần bị "đuổi" ra khỏi làng. Làng Ama Nhơn giàu nhất huyện và là làng văn hoá đầu tiên của huyện Ayun Pa.
Điều đặc biệt, mặc dù thời gian gần đây trên địa bàn xã, tình hình an ninh chính trị có lúc diễn biến phức tạp bởi một số phần tử xấu lén lút hoạt động, kích động một bộ phận đồng bào có những hành vi vi phạm pháp luật của Nhà nước, ảnh hưởng đến sự bình yên của nhân dân; nhưng làng Ama Nhơn không có một người dân nào nghe theo lời xúi giục của bọn chúng. Trả lời cho vấn đề này, tất cả mọi người trong làng đều vui vẻ: "Dân làng này chỉ nghe và làm theo những gì Ama Nhơn chỉ bảo".
Lê Hân (Lao Động)