Đã 2 lần đứng trước đồng đội hiên ngang đọc quyết tâm thư cũng là 2 lần Đỗ Xuân Giác được lắng nghe thủ trưởng đơn vị đọc điếu văn truy điệu sống chính mình. Cứ tưởng một đi không trở lại, thế nhưng số phận luôn mỉm cười với ông, một chiến sĩ đặc công dũng cảm, mưu trí, gan dạ, kiên trung.

Sinh ra trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng ở Kiến Xương, Thái Bình, 15 tuổi, Đỗ Xuân Giác được tuyển vào Trường Thiếu sinh quân Hà Nội, rồi được Cục II (nay là Tổng cục II - Bộ Quốc phòng) chọn đưa đi đào tạo nghiệp vụ trinh sát. 8 tháng sau ra trường, Đỗ Xuân Giác chính thức được đứng trong hàng ngũ quân đội. Sau đó anh được chuyển vào miền Nam bổ sung cho Tiểu đoàn Đặc công 407 Quân khu 5. Tháng 12-1967 Tỉnh đội Gia Lai thành lập Tiểu đoàn Đặc công 408, Đỗ Xuân Giác được biên chế về đây.

Ông Đỗ Xuân Giác tại căn nhà nhỏ của mình ở Tổ dân phố 2, thị trấn Đắc Hà, tỉnh Kon Tum.

Chiến trường Tây Nguyên những năm 1967 đến 1970 rất ác liệt. Tiểu đoàn Đặc công 408 được Bộ tư lệnh Quân khu 5 giao nhiệm vụ luồn sâu, đánh vào hậu cứ, sở chỉ huy, kho tàng, phương tiện chiến tranh của Mỹ-ngụy trên địa bàn và vùng ven. Năm 1968 đơn vị nhận nhiệm vụ đánh phá sân bay Cù Hanh. Sau gần một tháng trinh sát thực địa, chuẩn bị chiến trường, Đỗ Xuân Giác lúc đó là Trung sĩ, Trung đội phó đã viết quyết tâm thư xung phong đột nhập đánh phá các cứ điểm trong sân bay và được giao nhiệm vụ làm tổ trưởng. Khu căn cứ của quân Mỹ-ngụy ở sân bay có 16 lớp rào thép gai với các loại mìn dày đặc, pháo sáng, chó nghiệp vụ, quân địch lại tuần tra ráo riết ngày đêm. Biết trước được cái chết sẽ xảy ra nhưng anh không nhụt chí. Đêm đơn vị tiến hành làm lễ truy điệu sống, khi Chính trị viên Tiểu đoàn Nguyễn Cầm lên đọc điếu văn cả đơn vị đã bật khóc. Lệnh xuất kích đã đến, vượt qua chặng đường được kiểm soát chặt chẽ, gần 3 giờ sáng cả đội tới khu sân bay. Cởi bỏ quần áo, bôi nhọ than đầy người, rồi giấu hết súng đạn và quần áo, vũ khí mang theo chỉ có một quả lựu đạn nổ tức thì đề phòng bị lộ là tự sát ngay, anh và mũi trưởng Lê Phước Chương đã bình tĩnh, tự tin cắt nhá từng lớp kẽm gai, dò xác định mìn, đánh dấu mìn sát thương, chốt mìn phát sáng, mìn vướng… Tiến sâu vào lòng địch trinh sát kỹ, ban ngày tìm vị trí bí mật ngụy trang ẩn nấp chờ trời tối, 11 giờ đêm các anh bò ra đón tổ chiến đấu vào đặt thuốc nổ. Thời gian cho phép cài chất nổ không quá 30 phút, nếu không mìn hẹn giờ sẽ nổ. Trước cái chết cận kề nhưng với ý chí kiên cường, các chiến sĩ cảm tử đã thành công. Vừa ra hết hàng rào cuối cùng thì mìn đồng loạt phát nổ, quân địch bắn xối xả, tất cả đội cảm tử đều bị thương nhưng thật may mắn là không có ai hy sinh. Sân bay Cù Hanh bị phá hủy.

Năm 1969, sau hơn 20 ngày trinh sát Tổng kho bom đạn lớn nhất của quân Mỹ ở Gia Lai đặt tại Khu Yên Thế, Plei-cu, Đỗ Xuân Giác tiếp tục viết quyết tâm thư xung phong cảm tử và lần thứ 2 anh và đồng đội được đơn vị tổ chức truy điệu sống. Là Tổng kho bom đạn lớn của địch nên chúng canh gác rất nghiêm ngặt, thời gian các anh đột nhập vào khó khăn hơn trước, địa hình lại trống trải do đó xác suất bị lộ rất cao. Không chùn bước, Đỗ Xuân Giác đã tìm mọi cách đưa được đồng đội lọt vào phía trong tổng kho đặt thuốc nổ. Không may mắn như lần trước, khi cả đội cài xong thuốc nổ mới chui ra được 2 lớp hàng rào thép gai thì bị động, bọn địch bắn xối xả. Bộc phá phát nổ, cả kho bom, đạn nổ tung. Đỗ Xuân Giác bị thương ở chân phải nhưng ông vẫn cố bò về đến gần nơi tập kết. Sự thành công đã nằm ngoài dự tính, nhưng điều mà mọi người vui sướng nhất đó là không có ai hy sinh. Thêm một lần nữa, số phận lại mỉm cười với Đỗ Xuân Giác và những chiến sĩ cảm tử.

Trải qua nhiều trận đánh khác, với bản tính gan lì, dũng cảm không sợ hy sinh, Đỗ Xuân Giác đã cùng với đồng đội vào sinh, ra tử ở những nơi cam go, ác liệt như cứ điểm Lệ Chí, Lệ Trung, Mỹ Thạch, căn cứ Kơty Prông… Năm 1971, với nhiều vết thương trên cơ thể, anh được đơn vị cho ra Bắc điều dưỡng rồi cho xuất ngũ.

Sau ngày xuất ngũ anh về quê lấy vợ rồi đi học lớp trung cấp hàng hải, nhưng do sức khỏe yếu đành nghỉ việc ở nhà phụ giúp vợ con. Đến hôm nay, 3 đứa con ông đã trưởng thành lập gia đình riêng ở quê. Năm 1996 khi quay lại Tây Nguyên tìm thăm đồng đội, biết được cuộc sống của ông khó khăn, đồng đội đã vận động và giúp sức ông mua đất làm một căn nhà nhỏ tại Tổ dân phố 2, thị trấn Đắc Hà (Kon Tum) để đưa vợ vào. Hiện giờ, với mức phụ cấp thương binh hạng 1/4 và phụ cấp chất độc da cam, bệnh tật do vết thương cũ thường xuyên tái phát nên cuộc sống cũng không mấy khá giả. Thế nhưng, ông không một lời phàn nàn, so sánh, chính quyền và nhân dân địa phương và những người bạn cựu chiến binh nơi ông cư trú ai cũng thán phục về lối sống và sinh hoạt của ông với cộng đồng.

Bài và ảnh: Xuân Hoàng