QĐND - Tôi thường dùng cụm từ này để biểu lộ tình cảm, sự ngưỡng mộ của mình đối với Đại tá, PGS, TS Ngô Văn Giao, Viện trưởng Viện Thuốc phóng thuốc nổ (TPTN), Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng mỗi lần có dịp trò chuyện cùng anh. Tôi biết anh Giao từ khi anh còn là Chủ nhiệm Bộ môn TPTN của Học viện Kỹ thuật Quân sự. Mỗi lần gặp lại, nhìn bề ngoài tôi vẫn chẳng nhận ra được điều gì khác biệt ở anh. Dáng người hao gầy, khuôn mặt nhiều lúc thoáng chút ưu tư, nhưng khi trò chuyện thì say sưa tới mức quên cả ăn. Đặc biệt, chẳng biết thế nào, nhưng mỗi lần tôi gặp đều thấy ở anh có một thành công mới.
Ý tưởng khoa học từ nỗi nhọc nhằn của mẹ
Đó là câu chuyện tôi tình cờ được nghe anh kể trong thời gian chờ tới giờ khai mạc lễ tôn vinh các nhà giáo giỏi do Bộ Quốc phòng tổ chức năm 2007. Ngày đó, anh mới được bổ nhiệm giữ chức Phó trưởng phòng Phòng Khoa học Công nghệ &Môi trường của Học viện Kỹ thuật Quân sự; đồng thời vừa được Nhà nước phong học hàm Phó giáo sư. Câu chuyện của anh bắt đầu từ kết quả bảo vệ luận án tiến sĩ xuất sắc năm 2002 với đề tài: “Nghiên cứu nâng cao chất lượng xenlulo bông trong nước dùng trong công nghệ sản xuất thuốc phóng nitroxenlulo”. Luận án đã nghiên cứu một cách khoa học và khá đầy đủ về sản lượng, năng suất và chất lượng xơ của các giống bông lai như VN35, L18… ở nước ta dùng cho chế tạo nitroxenlulo trong công nghệ sản xuất thuốc phóng. Thực tình, lúc đó tôi không quan tâm nhiều đến đề tài tiến sĩ của anh mà lại thích nghe anh nói những chuyện “bên lề”. Anh kể:
- Mình sinh ra ở Thái Bình, một vùng quê thuần nông. Mấy anh em mình đều lớn lên, trưởng thành từ những hạt lúa, củ khoai qua bàn tay cấy trồng của mẹ. Nhiều hôm, vì nhà nghèo nên ăn khoai mãi cũng chán, anh em mình hay than phiền với mẹ; thậm chí còn mang chuyện hàng xóm ra để so sánh. Những lần như thế, mẹ chỉ cười rồi động viên anh em mình ăn nhanh còn đi học. Một hôm, đêm đã rất khuya, mẹ đứng lặng bên bàn chăm chú theo dõi mình học bài. Mẹ đứng từ khi nào mình không hay biết. Đêm đó, mẹ nói với mình rất nhiều điều về lẽ sống, về cách sống, cách làm người. Điều làm mình day dứt là những câu chuyện mẹ kể cho nghe về sự vất vả của người nông dân. Quả thật, lúc đó mình không hiểu hết, nhưng sau này lớn lên, được học hành, mình mới nhận ra: Khó khăn, vất vả, cơ cực của người nông dân trong câu chuyện của mẹ không phải ai xa lạ mà đó là cuộc đời của chính mẹ. Mẹ nói: “Con gắng học hành tới nơi, tới chốn để sau này có điều kiện làm gì đó giúp đỡ được người nông dân. Lao động của người nông dân vất vả lắm, nhưng cuộc sống thì rất cơ cực. Người nông dân làm ra được hạt thóc, củ khoai cũng mất tới nửa năm, nhưng đem ra chợ bán thì chẳng được bao nhiêu tiền. Vì thế, sau này lớn lên, con nghĩ được gì có lợi cho người nông dân thì gắng mà làm…".
 |
Đại tá, PGS, TS Ngô Văn Giao (bên phải) và cộng sự trao đổi kinh nghiệm về kết quả nghiên cứu sản xuất thuốc phóng từ nguyên liệu bông trong nước. |
Và chính từ những điều tưởng bình thường, giản dị ấy của mẹ, sau này khi được đào tạo trở thành kỹ sư TPTN anh luôn mơ ước có thể dành trọn tâm trí, sức lực của mình cho đề tài khoa học với mục đích sản xuất được thuốc phóng từ xenlulo Việt Nam, vừa để thỏa nguyện khát vọng của mẹ, vừa góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp quốc phòng phát triển.
Kích thích sản xuất, tiết kiệm ngoại tệ
Đó là giá trị của đề tài nghiên cứu cấp Bộ Quốc phòng kết thúc năm 2009: “Nghiên cứu công nghệ chế tạo nitroxenlulo (NC) cho sản xuất thuốc phóng từ nguồn nguyên liệu xenlulo bông trong nước ở quy mô phòng thí nghiệm” cho phép xác định giống bông thích hợp dùng trong sản xuất thuốc phóng. Và mới đây, đề tài áp dụng thử cấp Bộ Quốc phòng: “Hoàn thiện công nghệ chế tạo thuốc phóng từ nguồn nguyên liệu xenlulo bông trong nước” được Đại tá, PGS, TS Ngô Văn Giao cùng các cộng sự ở Viện TPTN tiến hành nghiên cứu được Hội đồng Khoa học cấp Bộ Quốc phòng nghiệm thu đánh giá đạt loại xuất sắc. Nói về giá trị của đề tài, anh Giao cho biết:
- Để sản xuất thuốc phóng, người ta sử dụng nitroxenlulo (NC) có hàm lượng ni-tơ từ 10,5% đến 13,8%. Nguyên liệu ban đầu cho sản xuất NC đều từ xenlulo bông (yêu cầu có hàm lượng a -xenlulo trên 95%) và xenlulo gỗ (yêu cầu có hàm lượng a - xenlulo trên 92%). Đối với các nước, nhất là những nước có nền công nghiệp quốc phòng phát triển, nguồn nguyên liệu xenlulo gỗ, người ta đi từ gỗ thông có hàm lượng a - xenlulo từ 54% đến 56% và phải dùng công nghệ nấu sunfit để có thể thu a - xenlulo trên 92%. Trong khi đó ở nước ta sản lượng gỗ thông rất thấp, phân tán, lại có thời gian sinh trưởng dài (25 - 30 năm), các nguồn gỗ khác đa dạng nhưng hàm lượng a - xenlulo thấp từ 40% đến 45% non già khác nhau, chứa nhiều tạp chất ảnh hưởng đến công nghệ chế tạo NC và thuốc phóng. Hơn nữa, chúng ta chưa có công nghệ nấu sunfit mà đang phải áp dụng công nghệ nấu sunfat nên chất lượng xenlulo không cao, chi phí lớn. Để chế biến hóa học, người ta sử dụng xơ bông ngắn (xenlulo lintơ có chiều dài xơ 8mm đến 12mm là phần còn lại trên hạt bông sau khi đã lấy các sợi dài phục vụ công nghiệp dệt) là có lợi nhất. Hàm lượng a - xenlulo trong lintơ bông thường trên 90% nên việc nâng cao chất lượng đủ tiêu chuẩn sản xuất NC sẽ đỡ tốn kém, hơn nữa lượng tạp chất còn lại trong xenlulo lintơ nhỏ, NC và thuốc phóng sẽ có chất lượng tốt và độ bền hóa học cao hơn.
Từ những phân tích trên của Đại tá, PGS, TS Ngô Văn Giao có thể nhận thấy: Bông vải là nguyên liệu lý tưởng để phục vụ cho việc sản xuất thuốc phóng. Hơn nữa, bông vải được người dân trồng tại nhiều địa phương, tập trung ở các vùng duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ với sản lượng hơn 100.000 tấn/năm phục vụ cho ngành công nghiệp dệt may. Đặc biệt, Đại tá PGS, TS Ngô Văn Giao cho rằng, dùng bông vải làm nguyên liệu sản xuất thuốc phóng không chỉ kích thích người nông dân mở rộng vùng chuyên canh bông, mà còn là điều kiện để tận thu toàn bộ sản phẩm sau khi lựa chọn những sợi bông dài phục vụ ngành công nghiệp dệt may. Lý giải với tôi về điều này, anh Giao nói:
- Nguyên liệu phù hợp và tốt nhất để phục vụ quá trình sản xuất thuốc phóng từ bông vải là tận thu những sản phẩm sau khi người dân đã khai thác bán cho các nhà máy dệt. Nếu tận dụng tốt nguồn nguyên liệu này để phục vụ sản xuất thuốc phóng không chỉ tăng thêm thu nhập cho chính người dân, chủ động được nguồn nguyên liệu sản xuất thuốc phóng, mà còn tiết kiệm được rất nhiều ngoại tệ cho đất nước. Vì từ trước tới nay, việc các nhà máy quốc phòng của ta tổ chức sản xuất thuốc phóng phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng nguyên liệu xenlulo ban đầu đều phải phải nhập ngoại. Mặt khác, trước yêu cầu mới của nhiệm vụ phát triển công nghiệp quốc phòng, những năm gần đây Đảng, Nhà nước, Quân đội đã quan tâm, đầu tư dây chuyền sản xuất thuốc phóng hiện đại, nhưng việc khai thác vẫn chưa hết công suất, vì nguyên liệu xenlulo đầu vào chủ yếu được nhập ngoại.
Thành công của đề tài trên mà Đại tá, PGS, TS Ngô Văn Giao và các cộng sự ở Viện TPTN thực hiện không chỉ còn là ý tưởng mà bước đầu đã được chứng minh bằng những sản phẩm thực tế. Đặc biệt, qua quá trình lao động nghiêm túc, từ những sản phẩm ra đời tại phòng thí nghiệm, đến nay được phép của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, nhóm tác giả đã tiến hành sản xuất thử trên dây chuyền công nghiệp nhà máy ZX thu được kết quả cao.
Nỗi niềm và sự mong ước
Mong ước lớn nhất của bất kỳ nhà khoa học nào cũng muốn công trình nghiên cứu của mình được ứng dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, thực tế không phải nhà khoa học nào cũng toại nguyện, bởi có rất nhiều lý do khác nhau. Vì thế, sau khi nghe tôi hỏi: “Anh mong muốn gì nhất ở đề tài này?”, Đại tá, PGS, TS Ngô Văn Giao lặng đi hồi lâu rồi nói:
- Với tôi và các cộng sự ở Viện TPTN, đây không chỉ đơn giản là một đề tài khoa học, mà đó là tất cả những gì chúng tôi tâm huyết nhất. Để có được thành công như ngày hôm nay, tôi và nhiều đồng nghiệp đã rất trăn trở và vất vả. Sản phẩm ra đời đáp ứng được những yêu cầu hết sức khắt khe của thực tiễn: Thuận lợi trong khai thác nguồn nguyên liệu; mang lại giá trị kinh tế; tiết kiệm ngân sách Nhà nước; khai thác, làm chủ công nghệ, nguồn nguyên liệu và đặc biệt là góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước phát triển. Tôi không phải là người “chưa làm đã nói hay”, bởi làm khoa học, nhất là trong lĩnh vực này phải đặt lên hàng đầu sự thận trọng, tính chính xác, an toàn, nhưng dù khiêm tốn đến mấy thì sản phẩm của chúng tôi nghiên cứu, chế tạo ra cũng đáp ứng tốt các yêu cầu nêu trên.
Bài và ảnh: Lê Long Khánh