 |
Bà mẹ Việt Nam anh hùng Ngô Thị Tiếp. |
Một người lính từng vào sinh ra tử nơi khói lửa. Một người phụ nữ bặt tin chồng, một mình thầm lặng nuôi con lớn lên theo cha vào bộ đội. Rồi đứa con trai duy nhất mãi mãi không về, một mình mẹ khắc khoải hy vọng ngày đoàn tụ với chồng. Họ gặp lại nhau sau 22 năm xa cách nhờ niềm tin và sự đợi chờ.
Một ngày đầu thu, chúng tôi tới thăm mẹ. Đi qua cánh rừng cao su đang khép tán, từ xa, một ngôi nhà ngói mới hai gian xuất hiện giữa rừng cây bạt ngàn xanh tốt của đất Phủ Quỳ (Nghệ An). Những công nhân đang chăm sóc cây cao su cho chúng tôi biết đó là gia đình Bà mẹ Việt Nam anh hùng Ngô Thị Tiếp và chồng là cảm tử quân Trần Văn Mậu. “Nhà tình nghĩa đó là của báo Phụ nữ Thủ đô và các nhà hảo tâm đóng góp xây mới cho mẹ đấy chú ạ. Thật thương các cụ, chỉ còn lại hai thân già côi cút...”.
Chúng tôi bước vào nhà mẹ khi ánh nắng chiều dần ngả bóng sau những tán cây mít, cây nhãn cổ thụ trong vườn. Mẹ đang khom lưng nhặt nhạnh những lá vàng khô rơi rớt bên hiên thềm. Cụ ông dáng hao gầy đang chỉnh lại di ảnh và bài vị của con mình cho ngay ngắn trên bàn thờ. Nhìn lên tấm bằng Tổ quốc ghi công: Liệt sĩ Trần Duy Trinh, mới biết đó là người con duy nhất của hai cụ. Thắp một nén nhang kính cẩn trước vong linh người đã khuất, chúng tôi nghe mẹ kể câu chuyện của mình về nửa thế kỷ trước. Nhân vật hiện hình trước mắt chúng tôi, nay tuổi đã gần 90 nhưng đôi mắt còn sáng, giọng nói đầm ấm khi kể về một thời oai hùng trong khói lửa. Đó là người chồng của mẹ bây giờ - người đã từng là đồng chí, đồng đội cùng chiến hào thời chống Pháp ở Điện Bàn và Duy Xuyên (Quảng Nam). Qua lời của mẹ Tiếp, chúng tôi được nghe câu chuyện của anh lính Cụ Hồ năm xưa mưu trí, dũng cảm và kiên cường. Câu chuyện của họ cứ hòa quyện vào nhau khiến người nghe không khỏi khâm phục về đức hy sinh cao cả.
Cảm tử quân năm xưa là Trần Văn Mậu, sinh năm 1920 ở xã Duy Nghĩa, Duy Xuyên (Quảng Nam), nay trú xóm Bình Hải, xã Nghĩa Bình, huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An. Theo chân các chiến sĩ cách mạng đi làm liên lạc khi còn tuổi thiếu niên. Sau Cách mạng Tháng Tám, chàng thanh niên Mậu gia nhập đội du kích xã và tích cực tham gia kháng chiến.
Một thời gian sau, đội du kích địa phương của ông bỗng xuất hiện cô giao liên trẻ cùng quê có nước da bánh mật, nổi tiếng tài trí, dũng cảm. Đó là Ngô Thị Tiếp. “Hồi đó tôi mê giọng hát và cảm phục lòng gan dạ của bà ấy lắm. Sau những trận đánh, bà ấy lại khởi xướng các tiết mục văn nghệ rồi đứng lên hát cho đồng đội nghe. Trong những trận đánh cùng chiến hào, chúng tôi đã kết duyên và được đơn vị tác hợp nên vợ thành chồng”. Ông Mậu tuy tuổi đã cao nhưng khi nhắc lại những kỷ niệm năm nào vẫn rất minh mẫn và rành rọt tới từng chi tiết.
“Chiến tranh là vậy, sự sống và cái chết như sợi chỉ. Bà ấy lấy tôi được nửa năm thì có mang. Vì là nữ, lại mới mang thai nên đơn vị quyết định cho vợ tôi được trở về hậu phương. Lúc đó, tôi đành phải chia tay vợ, tiếp tục ở lại chiến trường chiến đấu” - Ông Mậu nhớ lại.
Chiến tranh ngày một ác liệt, giặc Pháp ngày càng thắt chặt vòng vây các huyện Điện Bàn, Duy Xuyên và một số vùng lân cận, ra sức thiết lập thế trận “vành đai lửa” ở Quảng Nam, không cho bộ đội chủ lực của ta thoát ra ngoài. Cuối năm 1949, lãnh đạo du kích địa phương thành lập đội cảm tử quân nhằm phá vòng vây địch. Lúc đó, Trần Văn Mậu vừa mới gia nhập Trung đoàn 108, thuộc Quân khu 5 liền viết đơn bằng máu xung phong vào đội.
“Vợ tôi lúc đó mới sinh con nhỏ chưa tròn một tháng, thấy chồng về ngỡ đã được đoàn tụ. Ai ngờ đó lại là cuộc chia ly đặc biệt!”. Nén nhớ thương hẹn ngày đoàn tụ, Trần Văn Mậu nói với vợ là đi công tác một thời gian dài. Nhưng, sự thật là ông đã xác định đi vào cửa tử: xung phong phá vòng vây địch.
Trong trận đánh giáp lá cà đầu xuân năm 1953, đội cảm tử quân của ông lúc đó gồm 8 đồng chí bị địch phục kích trong khi làm nhiệm vụ trinh sát và gài thuốc nổ phá tàu chiến của Pháp trên sông thuộc địa phận Điện Bàn. Nhiều đồng chí đã bị thương nặng nhưng địch vẫn dựng họ lên để xử bắn tại chỗ. Lúc đó trời đã gần sáng. Chúng cho quân bắn xả liên hồi vào từng người một. Nhưng với ông, một nghĩa cử cao đẹp của đồng đội mà ông mãi khắc ghi: Người đồng chí cùng quê mặc dù bị thương rất nặng, nhưng đã kéo ông ra sau để mình hứng thay làn đạn của kẻ thù. “Mậu! Mày còn vợ và con nhỏ, phải sống mà chờ ngày đất nước giải phóng để được đoàn tụ!”. Đôi mắt ông Mậu ứa lệ khi nhắc lại chuyện cũ. Các đồng đội của ông lần lượt ngã xuống. Một làn đạn đỏ rực cả khoảng trời trút về phía các chiến sĩ cảm tử. Một viên đạn của địch đi xuyên qua lưỡi, chạy về phía sau gáy nhưng không giết được ông. Nhờ sự che chở của đồng đội, ông là người duy nhất thoát chết.
Được dân cứu sống và chăm lành vết thương, chiến sĩ Trần Văn Mậu lại tiếp tục cầm súng chiến đấu ở những địa bàn khác. Nhận tin đội cảm tử quân 8 người bị giặc Pháp tàn sát, bà Tiếp và mọi người ở nhà đã làm lễ truy điệu trong nỗi thương tiếc vô hạn. “Ngày biết tin chồng mình đã hy sinh, mẹ thẫn thờ cả năm trời không làm được gì. Nhưng nghĩ lại còn có giọt máu của bố thằng Trinh đang còn đó, phải nuôi nó lớn lên để sau này trả thù cho cha. Mẹ phải sống...” - Mẹ Tiếp đôi tay run run vừa giã miếng trầu vừa kể. Qua câu chuyện, chúng tôi còn biết mẹ Tiếp năm xưa đã nuôi nấng, che chở cho không biết bao nhiêu cán bộ và bộ đội ta trước những lần truy quét của giặc Mỹ. Vì thế, bọn giặc nghi ngờ mẹ nuôi cộng sản nên đã đốt nhà và bắt giam mẹ. Đến nay, vết thương do tra tấn vẫn còn in hằn trên khắp cơ thể mẹ. “Có chết mẹ cũng không khai bí mật cho bọn giặc. Mẹ làm du kích xã nên phải trung thành với Đảng, với Bác Hồ chứ. Chúng không khai thác được gì nên phải thả mẹ ra”.
Sau khi tham gia nhiều trận đánh và bị thương, sức khỏe của ông Mậu ngày càng yếu đi. Năm 1954, đơn vị quyết định cho ông tập kết ra Bắc điều trị. “Ngày được đơn vị cho ra Bắc nhưng tôi vẫn mang nỗi nhớ quê hương Duy Xuyên, nơi đó có người vợ trẻ và đứa con thơ. Tưởng rằng mình ra Bắc điều trị một thời gian cho sức khỏe bình phục rồi tìm lại vợ con sau, ai ngờ chiến tranh ác liệt quá, giặc Mỹ ngày càng leo thang đánh phá nên ngần ấy năm tôi không có điều kiện vào Nam. Viết thư nhờ chuyển vào đó cho vợ và người thân nhưng cũng chẳng thấy hồi âm. Ngày đi làm cùng anh em trong nông trường, tối đến nhiều đêm tôi không ngủ được vì nhớ vợ, nhớ con” – Ông Mậu nhìn người bạn đời đang đơm trầu, nói.
 |
Vợ chồng mẹ Ngô Thị Tiếp trong sự kính yêu của cán bộ Công ty nạo vét đường biển 2. |
Khi nghe ông tâm sự những điều từ đáy lòng, bà Tiếp cũng không khỏi xúc động khi nghĩ đến cảnh bao năm nuôi con thờ chồng. Bà tâm sự: “Mẹ hồi đó lấy ông đây mới mười tám, đôi mươi. Sinh thằng Trinh chưa tròn một tuổi thì hay tin chồng hy sinh. Cảnh thân gái một mình nuôi con dưới mưa bom lửa đạn, nhiều người cứ giục mẹ đi bước nữa. Nhưng mẹ còn đứa con, giọt máu của người chồng để lại, mẹ không đành. Có một linh tính trong mẹ là chồng mình vẫn còn sống. Mẹ đã đợi cho đến ngày đoàn tụ”.
Do điều kiện chiến tranh chia cắt, mãi đến sau ngày thống nhất đất nước, tháng 10-1975 ông Mậu mới thực hiện được ước vọng trở lại Quảng Nam tìm vợ con và gia đình. Tức là, sau 22 năm chờ đợi (1953 - 1975), vợ chồng họ mới gặp lại nhau.
Để có ngày hội ngộ ấy là nhờ niềm tin và sự thủy chung của bà Tiếp. Tiếc rằng niềm vui hội ngộ không trọn vẹn khi ông hay tin đứa con trai duy nhất của vợ chồng ông đã hy sinh năm 1969 trong lần cùng du kích tiếp tế thuốc men, đạn dược cho bộ đội ta đánh giặc. “Nghe vợ báo tin đó mà lòng tôi đau đớn. Thế là chiến tranh đã cướp đi giọt máu của vợ chồng tôi, cướp đi niềm vui của chúng tôi trong ngày đoàn tụ”, ông Mậu tâm sự trong nước mắt.
Sau ngày đoàn tụ, vợ chồng ông Trần Văn Mậu và bà Ngô Thị Tiếp quyết định dìu dắt nhau từ Quảng Nam ra vùng đất Phủ Quỳ, nơi ông Mậu đã từng cùng Trung đoàn 93 xây dựng nông trường. Từ đó về sau này, vợ chồng ông không sinh thêm đứa con nào nữa.
Nay ông bà tuổi đã cao. Bên cạnh nỗi buồn trong mất mát, ông bà vẫn tự hào về một quá khứ hào hùng, về niềm tin, sự chờ đợi và lòng chung thủy của người bạn đời.
TRẦN NGỌC THÁI