QĐND - Trong khuôn viên gia đình cố Bí thư Thành ủy Hà Nội Lê Văn Lương, đôi câu đối Giáo sư Vũ Khiêu đề tặng gia đình vào dịp đồng chí Lê Văn Lương được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng được để ở vị trí trang trọng: “Mười lăm tuổi lên đường chính khí vươn cao trời biển rộng/ Bảy mươi năm cùng Đảng công huân rực sáng gương soi”. Gần 20 năm ông về với Bác Hồ nhưng cuộc đời, sự nghiệp của vị Bí thư "công huân rực sáng gương soi" vẫn được mọi người nhắc tới.

Đồng chí Lê Văn Lương. Ảnh tư liệu

Bà Nguyễn Thị Bích Thuận vợ ông Lương đã bước sang tuổi 93 nhưng còn minh mẫn. Vì không muốn “liệt kê” lại thành tích đã được tôn vinh của chồng và để cho khách quan, bà giới thiệu để tôi gặp ông Dương Năng, nguyên Bí thư của đồng chí Lê Văn Lương. Ông Năng tiếp tôi trong một căn gác nhỏ thuộc Khu tập thể Trung Tự (Hà Nội).   

Thấy dân thiếu ăn, đứt bữa tôi khổ tâm lắm

Ông Năng kể lại: Cụ Lương làm Bí thư Thành ủy Hà Nội từ 1976-1986. Đây là một trong những thời kỳ khó khăn nhất của thủ đô Hà Nội cũng như cả nước. Thành phố luôn trong tình trạng mất điện, thiếu nước… kể cả muối ăn bán cho dân cũng thiếu. Sáng nào cụ Lương cũng dậy sớm nghe cán bộ Sở Lương thực và Văn phòng Thành ủy báo cáo tình hình phục vụ nhân dân. Cụ luôn hỏi mọi người: Cửa hàng nào còn thiếu muối, thiếu gạo? Bao nhiêu hộ dân chưa được mua lương thực?... Có những việc cụ bàn với UBND thành phố giải quyết ngay, có những việc cụ báo cáo Trung ương tìm cách tháo gỡ.

Thời kỳ đó, dân ta chủ yếu ăn gạo nhập khẩu. Cả thành phố Hà Nội trông chờ vào lượng gạo nhập khẩu nên hoàn toàn bị động và lệ thuộc. Có thời điểm Bộ Lương thực cho biết, phải ít nhất 15 đến 20 ngày nữa mới có gạo về nước, trong khi người dân Thủ đô đã không còn lương thực dự trữ. Nhiều đêm thức trắng tìm cách lo cho dân khiến đồng chí Lê Văn Lương già đi trông thấy. Một đêm, đồng chí đến gõ cửa Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng, báo cáo tình hình thiếu gạo của thành phố. Đồng chí nói với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: Thấy dân đói ăn, đứt bữa tôi khổ tâm lắm. Đề nghị Trung ương linh động xuất gạo dự trữ cứu dân Hà Nội.

Khi có gạo cứu đói cho dân, đồng chí lại nghĩ cách phân phối thế nào cho hợp lý, bởi lúc này tình trạng vô cùng khẩn cấp, người người, nhà nhà xếp hàng đòi mua gạo. Để cấp gạo cho những gia đình khó khăn nhất, đồng chí yêu cầu các phường kiểm tra cụ thể gia đình nào chưa được mua, nhà nào mua rồi thì mua sau… sau đó cho cấp phát về các phường bán cho dân, quyết không để bất kỳ hộ nào thiếu gạo.

Thời kỳ ấy, nước sạch cũng là vấn đề nan giải với Hà Nội. Phần Lan xây dựng cho Thủ đô một số giếng nước cung cấp cho toàn thành phố. Tuy nhiên, do thiếu kinh phí, lại hạn chế về kỹ thuật nên ống dẫn nước chỉ vào được một số phường, nhiều nơi trong thành phố luôn thiếu nước sạch. Người dân Thủ đô khi ấy phải thức đến 1, 2 giờ sáng xếp hàng dài chờ lấy nước về dùng. Cảnh lộn xộn, nhốn nháo, xô đẩy, chen lấn thường xuyên xảy ra. Một lần, vào khoảng 2 giờ sáng, đồng chí Lê Văn Lương đi thị sát tại phường Trung Tự, quận Đống Đa. Chứng kiến cảnh bà con chờ đợi lấy nước sạch, khiến ông vô cùng lo lắng. Việc thiếu nước sạch đã đến mức báo động, ngay lập tức, đồng chí yêu cầu Công ty cấp nước thành phố hằng ngày đóng nước vào téc, dùng xe chở đến các khu vực cung cấp cho dân.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước với các đại biểu dự Đại hội X của Đảng bộ thành phố Hà Nội năm 1986 (Đồng chí Lê Văn Lương hàng đầu, thứ 3 từ phải sang). Ảnh tư liệu

Ông Dương Năng vẫn không thể nào quên những trăn trở của đồng chí Lê Văn Lương khi ấy. Đồng chí thường nói: Nước ta là một nước ven biển, dân làm ra muối, vậy mà người Hà Nội lại không có muối để ăn, hoàn toàn phụ thuộc vào nhập khẩu và viện trợ từ nước ngoài. Nhiều lần ông đề nghị với Sở Lương thực-Thực phẩm thành phố và Bộ Lương thực-Thực phẩm đến những nơi bà con làm ra muối để mua về cung cấp cho dân nhưng đã không thực hiện được.

Lại một chuyện khác. Đó là vào một đêm đi thị sát, đồng chí rất buồn vì nhiều phố phường Hà Nội mất điện, tối om, nhiều nhà phải thắp đèn dầu leo lét. Điều lạ là cả phố mất điện nhưng riêng các quán phở, quán ăn lại có điện sáng trưng. Đồng chí tiến hành kiểm tra thì mới hay, đã có hiện tượng “tiêu cực”. Ngay lập tức, đồng chí cho kiểm điểm và kỷ luật những cán bộ và nhân viên phụ trách ngành điện. Hay khi đột xuất kiểm tra các cửa hàng mậu dịch, phát hiện nhân viên thông đồng với cán bộ, bán thực phẩm ưu tiên cho người thân, đối xử khiếm nhã với người dân, đồng chí liền chỉ đạo kỷ luật chủ nhiệm cửa hàng mua bán và đình chỉ công tác nhân viên mậu dịch…

Bỏ ngăn sông, cấm chợ và chế độ tem phiếu

Vào những năm 1984-1985, lúc đó Hà Nội cái gì cũng thiếu. Không một ai dám bán tự do mặt hàng gì (trừ các cửa hàng bách hóa mậu dịch bán theo chế độ tem phiếu). Các mặt hàng thiết yếu như: Gạo, thịt, mắm, muối… thậm chí là rau xanh đều thuộc diện phân phối. Bà con ngoại thành và các tỉnh lân cận sản xuất được rất nhiều nông sản nhưng không thể đem vào nội thành để bán, vì tỉnh nào cũng có trạm gác cấm người dân vận chuyển lương thực, thực phẩm ra khỏi địa phương. Việc ngăn sông, cấm chợ khiến Hà Nội bị cô lập. Người dân Hà Nội có tiền lương trong túi nhưng không thể mua được gì. Hà Nội rơi vào bế tắc, khó khăn chồng chất khó khăn.

Biết chuyện tỉnh nào cũng có trạm gác, ngăn cấm người dân đưa hàng hóa ra khỏi địa phương, đồng chí Lê Văn Lương liền gặp lãnh đạo Trung ương kiến nghị: Bỏ tình trạng ngăn sông, cấm chợ thì Hà Nội mới thoát khỏi khó khăn. Và tình trạng ngăn sông, cấm chợ, đã được bỏ, hàng hóa vào Hà Nội khá hơn, nhất là muối. Lúc này, đồng chí Lương lại tiếp tục đề nghị Chính phủ cho phép người dân Thủ đô được mua bán tự do một số mặt hàng sản xuất trong nước mà không cần tem phiếu như: Muối ăn, cá khô, rau xanh… Trung ương đồng ý cho Hà Nội làm điểm. Ngày đầu tiên các cửa hàng mở bán tự do, chỉ nửa ngày đã hết hàng. Thiếu hàng hóa bán cho dân, đồng chí lại đi vận động các tỉnh bạn cung cấp cho thành phố. Người dân Hà Nội rất cảm kích và đồng tình với quyết định của ông.

Mở rộng các huyện ngoại thành

Những năm làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, đồng chí Lê Văn Lương bàn bạc trong Thành ủy và đề ra chủ trương mở rộng thành phố ra các huyện ngoại thành. Ông cho rằng, xung quanh trung tâm thành phố phải có các huyện vệ tinh, như vậy mới cung cấp đủ lương thực, thực phẩm cần thiết cho nội thành. Đề xuất mở rộng các huyện ngoại thành của ông được Trung ương đồng ý và cho sát nhập một số huyện của Hà Tây về Hà Nội như: Sơn Tây, Hoài Đức, Thường Tín… Khi ngoại thành Hà Nội được mở rộng đã có cán bộ cho rằng: Quản lý các quận nội thành chưa xong sao với ra được ngoại thành? Nhưng quan điểm của đồng chí Lê Văn Lương rất rõ ràng: Đây là cách không lệ thuộc vào Trung ương, các huyện ngoại thành có thể giúp Hà Nội tự túc, tự cấp về lương thực, thực phẩm.

Nhờ các huyện ngoại thành mà lương thực, thực phẩm cung cấp cho Thủ đô trở nên dồi dào, số lượng hàng hóa của dân bán cho Nhà nước nhiều hơn, đời sống người dân Hà Nội dần khá lên. Để khích lệ nhân dân, đồng chí Lê Văn Lương thường xuyên đi kiểm tra, đến tận nơi động viên bà con tích cực sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi, làm ra nhiều nông sản nộp cho Nhà nước theo đúng quy định, còn lại bà con được sử dụng và bán tự do trong thành phố.

Cho đến bây giờ, người dân Hà Nội vẫn nhắc nhiều đến ý kiến của đồng chí Lê Văn Lương trong Đại hội IX của Đảng bộ thành phố, đó là việc huy động vốn của Việt kiều để mở rộng liên kết, làm nhiều hàng công nghệ xuất khẩu… Đặt trong bối cảnh lúc đó, ý kiến của đồng chí là hết sức mạnh dạn, chủ động trong việc huy động tiềm năng của các tầng lớp nhân dân. Nhờ áp dụng từng bước cơ chế quản lý mới và kiên quyết tập trung chỉ đạo sửa đổi một số chính sách kinh tế đã lỗi thời, nên kinh tế-văn hóa Hà Nội dần dần có nét khởi sắc: Sản xuất công nghiệp có tiến bộ, nông nghiệp đã đạt được những thắng lợi đáng kể, xuất nhập khẩu và kinh tế đối ngoại bước đầu có tiến bộ; nhà ở, trường học được chăm lo xây dựng nhiều hơn trước...

TRỊNH VĂN DŨNG