QĐND - Giữa dòng người xuôi ngược và cuộc sống vô cùng nhộn nhịp, sôi động của TP Hồ Chí Minh, hằng ngày, đều đặn, không kể nắng mưa, sớm tối, vẫn có một cụ già đi trên một chiếc xe đạp cà tàng đến trông coi, lau chùi bảo quản, đồng thời là hướng dẫn viên cho khách đến tham quan Phòng Trưng bày vũ khí tự tạo nhân dân và Quân giới Nam Bộ B2 nằm trong Bảo tàng Lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ (Quân khu 7).

Từ nhiều năm qua, Phòng Trưng bày vũ khí tự tạo nhân dân và Quân giới Nam Bộ B2 (1945-1975) trở thành một phần không thể thiếu trong tổng thể Bảo tàng Lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ. Đây cũng là điều khác biệt của Bảo tàng này với những bảo tàng chiến tranh khác trên cả nước. Thăm Phòng trưng bày, khách tham quan sẽ bị cuốn hút bởi hàng trăm hiện vật vũ khí mang thương hiệu “Made in Việt Nam” do đôi bàn tay và khối óc của những người lính thợ quân giới và nhân dân Nam Bộ sản xuất trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, cùng với hơn 100 bức ảnh đen trắng ghi lại nhiều khoảnh khắc, hình ảnh trong thực hiện nhiệm vụ sản xuất và cải tiến vũ khí của quân và dân Nam Bộ. Điều đặc biệt, người hướng dẫn ở đây không phải là những thiếu nữ trẻ trung, thướt tha trong trang phục áo dài như thường thấy, mà là một ông lão đã bước vào tuổi “xưa nay hiếm”. Ông là Nguyễn Tấn Hoài - một người thợ quân giới trong kháng chiến chống Pháp, nay đã ở tuổi 87, người ta vẫn thường gọi ông bằng biệt hiệu rất trìu mến “Cụ Hai quân giới”.

Theo lời chỉ dẫn của Đại tá Đặng Công Buôi - Trưởng Ban liên lạc Quân giới B2 - chúng tôi tìm đến “trụ sở” làm việc của cụ Hai khi mặt trời đã gần đứng bóng. Phòng Trưng bày vũ khí tự tạo nhân dân và Quân giới Nam Bộ B2 nằm khiêm nhường sau khu nhà chính của Bảo tàng Quân khu 7. Phòng khá rộng, sâu hút với nhiều hiện vật to, nhỏ, phải quan sát một lúc chúng tôi mới nhận thấy dáng một cụ ông lom khom khuất sau mấy quả thủy lôi to hơn vòng tay người. Mải sắp đặt, lau chùi lại những hiện vật, ông không để ý đến sự xuất hiện của chúng tôi. Chỉ đến khi chúng tôi cất lời chào, ông mới quay lại, đưa tay gạt những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, nở nụ cười hiền từ chào khách. Trước mặt chúng tôi là một cụ ông có dáng người đậm chắc, da ngăm ngăm, chùm râu dài trắng muốt, gương mặt phúc hậu, ánh mắt tinh anh… Dường như đã thành thói quen mỗi khi có khách, ông nói: “Mời anh chị lại phía cửa ra vào, tôi sẽ giới thiệu với anh chị bắt đầu từ những loại vũ khí mà chúng tôi sản xuất từ kháng chiến chống Pháp”. Biết là đã muộn, chúng tôi xin hẹn gặp lại vào đầu giờ chiều nhưng trước sự nhiệt tình, hào hứng của ông, chúng tôi không nỡ từ chối.

Đại tá Đặng Công Buôi - Trưởng Ban liên lạc Quân giới B2 cho biết: Cụ Hai đã có hơn 20 năm gắn bó với Phòng trưng bày, từng giới thiệu cho hàng vạn lượt khách đến xem ở mọi lứa tuổi, thành phần. Quan trọng hơn cả, cụ chính là người có ý tưởng thành lập nên Phòng trưng bày và đóng góp rất nhiều công sức trong quá trình thu thập, sưu tầm, phục chế hình ảnh, hiện vật.

Cụ Nguyễn Tấn Hoài (bên trái) cùng Trưởng Ban liên lạc Quân giới B2 Đặng Công Buôi trao đổi về hiện vật trưng bày trong Phòng trưng bày.

Trò chuyện với chúng tôi, cụ Hai kể về quá trình hình thành nên “đứa con tinh thần”. Đó là vào khoảng giữa thập niên 1980 của thế kỷ trước, khi ấy Câu lạc bộ Quân giới Nam Bộ đã quy tụ được hàng nghìn hội viên từ nhiều tỉnh, thành phố từng tham gia hai cuộc kháng chiến (chống Pháp và Mỹ), cụ được giao trọng trách trong nhiều năm làm Trưởng ban liên lạc. Với mong muốn lưu giữ những sản phẩm mình làm ra để giáo dục truyền thống cho thế hệ sau, cụ đề xuất với thường trực Ban liên lạc về ý tưởng của mình. Không ngờ lại trùng hợp với sự mong mỏi bấy lâu của anh em. Hoàn cảnh kinh tế lúc đó rất khó khăn, cụ Hai và đồng đội trong Ban liên lạc hiểu rõ điều đó, song mọi người vẫn quyết tâm xắn tay vào làm bằng nỗ lực của bản thân và vận động sự giúp đỡ của nhiều tổ chức và cá nhân. Với điệp khúc “xe mượn, xăng xin, cơm nhà, áo vợ”, cụ và đồng đội lần mò tìm đến các cựu binh quân giới, đến các tỉnh, thành phố, các bảo tàng, vừa sưu tầm vũ khí tự tạo ở các địa phương, vừa học nghiệp vụ bảo tàng… Đồng thời, tìm đến các nhân chứng từng tham gia làm việc ở các cơ sở sản xuất vũ khí, nắm thông tin chính xác từng chi tiết để phục chế. Trong tay không có xưởng, không có kinh phí, cụ và đồng đội tìm đến các đồng chí nguyên là cán bộ quân giới trước đây (nay là lãnh đạo các ban ngành, xí nghiệp), để nhờ giúp đỡ kinh phí hoặc gia công miễn phí. Đi đến đâu, các cụ cũng nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình. Một mặt sưu tầm, phục chế, cụ Hai và đồng đội tính đến việc phải có mặt bằng để trưng bày. Nơi nghĩ đến đầu tiên là Nhà Văn hóa lao động TP Hồ Chí Minh. Quả thật, khi ngỏ lời, lãnh đạo ở đây vui vẻ giúp đỡ mặt bằng bên ngoài với giao ước: Sáng đưa ra, chiều tối thu vào, vì đây là nơi vui chơi, dịch vụ. Có mặt bằng, cụ Hai và anh em đề ra phương châm “không cầu toàn”, “làm cuốn chiếu”, sưu tầm hoặc gia công đến đâu mang ra trưng bày đến đó. Hằng ngày kiên trì mang ra, bưng vào, niềm nở chào đón, giới thiệu cho người đến xem…

Sau gần 10 năm, cụ Hai và đồng đội đã sưu tầm và phục chế được gần 400 vũ khí tự tạo như các loại lựu đạn (trứng gà, vỏ đồng, đập lọ mực, lựu đạn phóng LX Mỹ Tho…); súng cối 50, súng cối cò sống 60, mìn ĐH 10, mìn clây-mo Bến Tre, thủy lôi chóp rỗng 600 ngòi điện, 520 ngòi sừng chạm nổ, đạn hỏa tiễn SSBF-88, SSAT-50, đạn bom phóng, v.v.. Ngoài ra là 100 bức ảnh phóng to, 9 sa bàn, 3 hộp hình, 9 máy công cụ, 2 máy chuyên dụng. Số lượng hiện vật tăng dần theo từng tháng, từng năm, Phòng trưng bày cũng đã được di chuyển tiếp hai lần để tương xứng với quy mô. Có mặt bằng thuận lợi, các cụ xếp từng chủng loại, từng nhóm vũ khí, trang trí nột thất, lau chùi bảo quản… tạo được hình thức hấp dẫn và việc hướng dẫn thuyết minh được thuận lợi. Kèm theo đó, Phòng trưng bày còn đề ra khẩu hiểu “4 gắn”: Gắn bảo tàng với học đường, với các trường quân đội, với thanh niên đường phố, với công nhân. Không chỉ giới thiệu tại chỗ, cụ cùng anh em trong Ban liên lạc đến các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề, trung học phổ thông thuyết phục Ban giám hiệu đưa học sinh, sinh viên đến tham quan Phòng trưng bày… Cụ còn chủ trì tổ chức đưa hiện vật đi trưng bày lưu động ở nhiều nơi, trong đó có một số bảo tàng các tỉnh, đặc biệt là những chuyến hành trình về tận vùng kháng chiến cũ như chiến khu Đ, chiến khu Rừng Sác…

Trong thời gian phụ trách Phòng trưng bày kiêm hướng dẫn viên, cụ Hai nhớ nhất một kỷ niệm. Lần ấy, một cô giáo dạy Sử đến gặp nhờ giải hộ một câu hỏi của học trò mà cô đang bí. Câu hỏi là: “Vũ khí của các nước bây giờ tối tân hơn vũ khí của ta nhiều, cơ sở nào để nói rằng, ta sẽ lại chiến thắng khi có chiến tranh? Nếu chiến tranh xảy ra, gia đình em sẽ đi tránh ở nước ngoài, chờ khi nào yên mới trở về chứ chẳng tội gì mà ở lại chờ chết”? Câu chuyện của cô giáo trẻ xoáy vào lòng ông. Ông lẳng lặng không nói, chỉ đề nghị cô giáo, nếu có dịp, hãy đưa các em học sinh đến tham quan bảo tàng. Đúng hẹn, cô giáo dẫn nhóm học trò tới, giới thiệu với chúng: “Đây là người có thể thay cô giải đáp những thắc mắc của các em”. Nhóm học trò xôn xao, lộ vẻ hoài nghi. Ông bắt đầu phần thuyết minh của mình với câu chuyện về tầm vông vạt nhọn, mìn tĩnh nước mắm, đạn làm bằng thau lá, súng giàn thun, thuốc nổ làm bằng phân dơi cùng hàng loạt vũ khí tự tạo của quân và dân miền Nam làm ra trong những ngày khó khăn, gian khổ nhất thời kháng Pháp, chống Mỹ. Ông cũng kể chuyện về Đội Thiếu niên du kích Đình Bảng (Bắc Ninh) trong kháng chiến chống thực dân Pháp... Tiếng xôn xao giảm dần rồi im bặt! Ánh mắt hồ nghi ban đầu dần biến mất. Cô giáo đứng bên cạnh ngạc nhiên khi thấy những ánh mắt hào hứng và chăm chú của lũ học trò. “Tour” tham quan bảo tàng kết thúc. Ông cụ ôn tồn: “Ông không thể đáp ứng lời yêu cầu của cô giáo là giới thiệu với các cháu thứ vũ khí tối tân nhất có khả năng “địch lại” với mọi thứ vũ khí nước ngoài. Thứ vũ khí tối tân nhất nằm trong tim, trong tay các cháu. Hãy tin là các cháu được học nhiều và giỏi hơn cha, ông ngày xưa nhiều lắm. Người Việt mình có một bản năng, một nền văn hóa chống xâm lăng. Cha ông các cháu đã có và mỗi cháu đứng chung quanh ông đây đều có. Cứ yên tâm là khi có giặc, các cháu tự khắc sẽ biết cách đánh”.

Thấm thoắt cũng đã hơn 20 năm, đồng nghiệp của cụ Hai người còn, người đã khuất vì tuổi cao, sức yếu, nhưng cụ vẫn bền bỉ, sớm nắng, chiều mưa cùng chiếc xe đạp cà tàng, vượt hơn 5km, đều đặn đến với Phòng trưng bày rất đúng giờ, để thực hiện nhiệm vụ cuối cùng nhưng thiêng liêng, cao cả nhất của một người lính giữa thời bình. Ngày có khách, ngày không, nhưng cụ vẫn kiên trì, miệt mài với đứa con tinh thần của mình và coi những hiện vật “vô tri, vô giác” kia như những người bạn tri kỷ.

Đền đáp công sức của cụ và đồng đội, ngoài hàng vạn lượt khách trong và ngoài nước đến thăm, Phòng trưng bày còn vinh dự được đón nhiều lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, Quân đội, thành phố đến thăm và để lại bút tích, như cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Nguyễn Quyết, đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư (nay là Chủ tịch nước)…

Đến thăm Phòng trưng bày, chúng tôi không chỉ bất ngờ về hiện vật và người hướng dẫn, mà còn được xem một sản phẩm tinh thần khác do cụ Hai và đồng nghiệp dày công gây dựng, đó là cuốn “Lịch sử Quân giới Nam Bộ - B2 trong chiến tranh giải phóng (1945-1975)” dày hơn 700 trang, xuất bản năm 2008. Theo như cụ Hai kể, để ra được đứa con tinh thần này phải mất hơn 5 năm sưu tầm tư liệu, gặp gỡ rất nhiều nhân chứng, kiểm chứng thông tin, chỉnh sửa và biên soạn... Đến nay, do nguồn kinh phí có hạn nên các cụ mới in được khoảng 1000 cuốn phục vụ tuyên truyền và lưu giữ lịch sử ở một số tỉnh phía Nam. Niềm mong mỏi của cụ Hai và đồng nghiệp là có thêm kinh phí tái bản cuốn sách và phát hành rộng rãi trong cả nước để mọi người hiểu về một giai đoạn lịch sử hào hùng của Quân giới B2 đã cùng Quân giới cả nước đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Chia tay, tôi nhớ mãi câu nói của “Cụ Hai quân giới” Nguyễn Tấn Hoài: “Tôi sẽ còn làm việc ở đây đến 90 tuổi, thậm chí là hơn, cho đến khi nào giọng tôi không còn lửa nữa...”.

Bài và ảnh: Kim Dung - Lê Nam