Ông Hoàng Anh Triện trước cánh rừng bần của mình tự trồng.

Rừng bần đê Hội Thống vùng bãi ngang huyện Nghi Xuân đang hồi sinh. Đi dọc con đê, qua những vùng bần giăng giăng như thành, như lũy, lòng tôi nôn nao nghĩ đến ông Triện, người cựu chiến binh yêu cây bần, lo cho cây bần như lo chính cho cuộc đời mình.

Và cũng lại không khỏi băn khoăn, nhìn sang phía bên kia còn hoang hoải một màu bùn, sóng xô đập vào thân đê... Cuối tháng 5 ta rồi, mùa mưa lũ đã cận kề...!

Trồng bần phải như chăm con nít, anh ạ! Phải yêu thương, chăm chút nó. Đừng nghĩ cây là thứ vô tri. Không hẳn thế đâu, bần cũng biết buồn, biết vui, biết trả nghĩa con người đấy!

Ông Hoàng Anh Triện, chủ rừng bần, bởi có một cánh rừng bần do ông trồng nay đã mang tên ông “Rừng bần ông Triện” rủ rỉ nói với tôi như vậy. Nghe ông nói thấy có “vấn đề” quá, tôi vờ bâng quơ:

- Nghe người ta nói, ông tự bỏ tiền, bỏ công sức để trồng bần. Có điều chi khiến ông nảy ra cái việc làm không công này hay vậy?

- Thì tui thấy rừng bần bị bom đạn, bị con người tàn phá tan tành, lại thấy người ta mang cái giống cây đước tận đẩu, tận đâu về dong trống, mở cờ ra quân không dưới 3 lần, manh nha trồng lại rừng. Dễ thường đã bỏ tiền tỉ xuống bãi sông, mà đước chẳng thấy đâu, bùn vẫn hoàn bùn! Lúc đầu thấy tiếc tiền, tiếc cái công sức của nhà nước, của bà con mình quá, tui cũng thử trồng xem sao. Tui chui vô rừng bần nguyên sinh có từ những năm 30 thế kỷ trước còn sót lại, đào dăm ba chục cây trồng thử. Thấy nó bén rễ, xanh cây, thế là tui nảy ra ý tưởng trồng bần. Trước là ngăn sóng, chắn gió cho cái đồng tôm ngoài đê của gia đình tui. Sau thấy làm được quá, tui làm tới, quyết định trồng thành rừng để che chắn cho cả con đê xã Xuân Trường quê tui. Anh không biết đó thôi, chẳng có rừng bần, con đê tội lắm! Cơn lũ năm 1989, không có rừng bần cản dòng nước xiết, con đê trần trụi giơ lưng đơn độc chống đỡ sóng nước không xuể, vỡ toang. Ruộng đồng, nhà cửa ngập trắng. Nhà tui ở xóm Trường Hoa, xã Xuân Trường ni, cách đê gần cây số mà nước cũng tràn vô đến tận thềm…!

Ông Triện khoát tay chỉ về phía trong đê, nơi lô nhô những lò gạch đang bình yên nhả lên trời những làn khói trắng, nơi rộm vàng một màu lúa đang vào vụ gặt, mỉm cười. Ngoài đê, thủy triều đang lên hợp sức cùng nước lũ từ thượng nguồn đổ về, dâng sóng đập vào những hàng bần đang độ cường tráng ì oạp. Có rừng bần che chở, những con sóng chỉ uể oải vỗ nhẹ vào thân đê như đã mệt nhoài. Đã không ít lần đến với rừng bần, đến với con đê, nghe ông Triện bảo trồng bần như chăm con nít quả chẳng ngoa tẹo nào.

Họ kể rằng, khi đào cây bần con phải cẩn thận như nâng niu đứa trẻ. Nhát xẻng phải từ tốn, chớ làm đứt rễ cây. Bởi để bần con đứt rễ, khi trồng rễ bần ngâm trong nước, trong bùn, nên rễ đứt là bị thối ngay, cứ như người ung thư vậy. Vết thối lan rất nhanh vào gốc, lên cây, thế là cây chết. Trồng cây xong, năm đầu phải giữ bần như giữ trẻ. Nào là canh chừng cánh thuyền chài thả lưới. Lưới vốn nhẹ lại bị sóng, gió đưa đẩy rất dễ vướng vào cây bần mới trồng. Sợ rách lưới thế là bọn họ nhổ luôn cả cây lên để gỡ. Đôi khi gặp những tay thuyền chài bặm trợn, chúng còn múa dao dọa chém. Nhưng thấy ông can trường, chúng đành thu dao tháo lui. Rồi lại phải canh không cho trâu bò thả rông tràn vô rừng bần. Đồng ruộng bây giờ hầu hết thành ao, đầm nuôi tôm cua xuất khẩu cả. Hiếm cỏ, lũ trẻ đành đuổi trâu, bò chăn trên đê. Thế là đàn trâu tràn xuống rừng bần. Ba bốn chục con trâu đổ bộ xuống, khác chi xe bọc thép càn vô đó, cứ là tan nát! Rồi hằng ngày phải lội suốt bãi sông bùn ngập quá đầu gối để gỡ đám rêu nhớt theo thủy triều lên bám vô cây vít cổ cây con vốn yếu ớt xuống bùn. Không gỡ chúng ra, cây sẽ bị ngạt mà chết. Lại thấy cây nào bị nước sông xói trốc gốc, lòi rễ thì bốc bùn đắp lại. Cả ngày ông phải lội lóp ngóp ở bãi sông ngập ngụa chỉ nước với bùn, người ngợm cứ là lấm lem, hôi sì sì…!

Thấy tôi cứ thẫn thờ hết nhìn con đê lại ngắm rừng bần, ông Triện kéo tôi ra khỏi cái lán canh rừng. Cái lán vách được che chắn bằng đủ loại gỗ ván tận dụng, mái lợp bằng tranh, trông nhỏ nhoi nhưng chắc chắn giữa lớp lớp rừng bần. Thả bộ dọc con đê, tiếng ông bồng bềnh trên nền tiếng gió, tiếng sóng:

Cháu Hoàng Anh Hiếu (bên phải), con trai ông Hoàng Anh Triện nay cũng theo bố ngày ngày đi bảo vệ rừng bần.

- Mấy ông “dự án” thừa biết vùng ni thiếu chi bần con, thế mà can cớ chi phải lặn lội đi mua cái giống đước lạ hoắc tận đẩu, tận đâu về đây trồng cho chúng chết yểu. Cái giống đước ấy theo như tui nghĩ, thứ nhất nó chẳng hợp đất, hợp nước ở đây. Đừng có nghĩ đã là cây ngập mặn thì nơi mô ngập mặn cũng trồng được! Thứ hai, cây đước giống họ chổ về, thân chỉ nhỉnh hơn chiếc đũa, đã nhỏ lại yếu, đường vận chuyển thì xa, tránh sao khỏi bầm giập, gãy đứt, trồng lên nếu sống được cũng chỉ lắt lay dăm bữa, nửa tháng là chết queo ngay! Thứ ba, trồng cây kiểu gì mà cứ cắm cây xuống bùn là bỏ đó, chẳng ai chăm sóc, bảo vệ, sống chết mặc… cây. Trồng thế, cây nào mà sống nổi !

Thì ra là thế! Lâu nay tôi và không ít đồng nghiệp cứ băn khoăn chẳng hiểu vì sao người dân vùng bãi ngang này bao bận ra quân trồng rừng ngập mặn là bấy lần trở về tay trắng. Thấy ông đang vui, tôi hỏi thêm:

- Tôi thấy nhiều người do trồng rừng mà thành ông chủ, thành triệu phú, tỉ phú. Ông tay không mà trồng nên rừng, đã thành một chủ rừng, đã bao giờ có ý nghĩ mình trồng bần để làm giàu chưa ?

- Thực lòng ai chẳng mong mình bỏ tiền của, công sức ra rồi được đền đáp - Ông Triện mỉm cười - Nhưng trồng rừng bần thì khác đấy! Bần là thứ cây phòng hộ cho đất, cho người, chớ đâu phải là thứ cây trồng lên rồi chặt bán. Mà bán thì ai mua? Bần thành rừng, là tài sản chung của xã hội, của mọi người, bởi nó là cái lá chắn bảo vệ con đê, bảo vệ xóm làng. Mặc dù dân làng vẫn gọi cánh rừng tui trồng đây là rừng ông Triện. Họ quý mến mà gọi đó thôi. Tui tự đi đào bần con, hết “nguồn” thì tui chèo đò sang bên Nghệ An bỏ tiền ra mua giống về. Vậy nên rừng bần của tui phủ kín hơn 3ha bờ sông. Đận trước, xã, huyện có mời tui lên biểu dương thành tích trồng rừng ngập mặn, rừng phòng hộ. Các vị đưa cho tui cái phong bì. Mở ra tui thấy có 15 ngàn đồng. Thấy thế, bà Dần, vợ tui ỉ eo: “Ông cứ cặm cụi trồng bần cho tợn vô! Đúng là ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng!”. Tui im re, chớ cãi thì cãi làm sao! Mặc dù tui biết rằng bà ấy nói thế cũng có cái lý của bà ấy. Là người mẹ của 5 đứa con, ai chẳng lo cái niêu cơm của nhà mình! Nhưng với tui thì tui cứ nghĩ, vì thương con đê, thương xóm làng, thương cả mình nữa mà cất công trồng bần để che dòng nước xiết, chắn cơn sóng lũ cho mùa màng khỏi thất bát, cho làng mạc khỏi tiêu điều, vậy thôi! Vác tù và hàng tổng cũng chẳng hề gì, miễn là mình làm cái việc có ích cho gia đình, cho quê hương thì cứ làm.

Tôi ngồi nghe ông nói mà thấy ấm cả lòng. Bởi con đê Hội Thống trấn giữ bờ nam sông Lam miền hạ lưu này từ thập kỷ 80 thế kỷ trước đến nay đã không dưới ba lần con sông cùng biển dâng nước, cuộn sóng chặt con đê làm mấy khúc ở những nơi không còn rừng bần nữa, cuốn phăng theo dòng chảy của nó biết bao nhà cửa, ruộng vườn cùng bao sinh mạng con người. Những ai sinh thành trên đất bãi ngang này hẳn đều biết từ năm 1940 đến thập kỷ 70 của thế kỷ XX, lúc rừng bần nơi đây còn trùng điệp, còn ở thời vàng son, biết bao cơn bão, lũ tràn tới đất này nhưng con đê vẫn đứng vững, chưa một lần chịu gục ngã trước thủy thần !

Tiếng gió Lào quất ào ạt trên tán lá xanh rừng bần ngút ngát, và tiếng sóng sông đầu mùa lũ ràn rạt. Nhìn rừng bần cường tráng như dáng đứng của những người lính, ưỡn ngực che gió, chắn sóng giữ đất, giữ người lòng tôi bỗng rộn rực một niềm cảm phục sâu xa. Giữa cuộc đời nặng nợ áo cơm, vậy mà ông Triện một cựu chiến binh suốt 5-6 năm ròng rã lặn lội, cần mẫn rưới mồ hôi mình xuống bãi sông; dù chẳng có “bột” mà vẫn gột nên “hồ”; đã làm nên câu chuyện cổ tích bình dị mà cao quý.

Hạ lưu sông Lam đầu mùa lũ 2008

Bài và ảnh: NGUYỄN XUÂN DIỆU