QĐND - Chú tôi là liệt sĩ Nguyễn Văn Miệu, quê Hải Dương, hy sinh ở Bệnh xá K200, Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhiều năm nay bố tôi cứ đau đáu phải tìm cho được hài cốt của em mình. Vậy là sau khi liên lạc với Bộ CHQS tỉnh Quảng Ngãi bằng điện thoại, tôi và bố quyết định đáp tàu vào quê hương núi Ấn, sông Trà.

Anh Nguyễn Thế Phương (ngoài cùng, bên phải) và đoàn tìm mộ liệt sĩ dừng chân ở Gò Rút. Ảnh do nhân vật cung cấp.

Ấn tượng đầu tiên của hai bố con là dù tàu muộn và chúng tôi đến Bộ CHQS tỉnh đã 5 giờ 30 phút chiều, vậy mà Đại tá Bùi Tá Tuân, Chủ nhiệm Chính trị Bộ CHQS tỉnh vẫn ở lại chờ đón. Anh bố trí cho hai bố con tôi ăn nghỉ, giao nhiệm vụ cho Ban Chính sách để ngày hôm sau lên đường ngay. Anh còn dặn các đồng chí trong ban chuẩn bị đủ lương thực, thực phẩm cho chừng 10 người trong 2 ngày và mang quà tặng đồng bào nơi đoàn đến.

4 giờ sáng, đoàn gồm Thiếu tá Trần Trọng Khánh, Trưởng ban Chính sách; Thiếu úy QNCN Trần Chí Hồng, nhân viên của ban và tôi lên xe Bộ CHQS tỉnh thẳng tiến đến huyện Ba Tơ (bố tôi sức yếu không thể đi được). Tại đây, xe đón anh Hải, trợ lý chính sách của Ban CHQS huyện. Nhờ Bộ CHQS tỉnh hợp đồng trước chu đáo nên kế hoạch đi theo đúng lịch trình. Đến UBND xã Ba Giang, đoàn được anh Trình, Phó chủ tịch UBND xã, chị Loan, chị Xuyến, Văn phòng Ủy ban đón tiếp nhiệt tình và cùng đi luôn. Bỏ xe lại, tất cả bươn rừng, lội suối hơn 10 cây số. Các anh, chị của tỉnh đã quen, còn tôi, trai Hà thành, vất vả lắm mới theo kịp đoàn. Thỉnh thoảng dừng lại bắt những con vắt đeo bám, máu loang cả áo. Đến Gò Rút, anh Trình dẫn chúng tôi đi gặp bác Thẳng, một CCB, người dân tộc H’re đã từng tải thương cho bệnh xá. Tuổi đã già, vậy mà ông đi thoăn thoắt, vừa đi vừa kể về những ngày ác liệt ở chiến trường, làm tôi thêm tự hào về chú của mình đã chiến đấu và hy sinh trên mảnh đất này. Đi thêm chừng 4 cây số nữa theo con đường mòn mỗi lúc một cao dần, chúng tôi đến xóm nhỏ đồng bào H’re cheo leo giữa rừng. Ông Thẳng nói, thời chống Mỹ, ở đây chỉ có 3 nóc đã trở thành địa danh “khu Ba Nhà”, bây giờ thêm 4 nóc nữa. Lúc này đã 2 giờ chiều. Đoàn nấu cơm, lấy cá chuồn mắm ra ăn chung với bà con. Bác Thẳng tiếp tục dẫn chúng tôi đi men theo bờ suối, lên đầu nguồn, đến Bệnh xá K200 của tỉnh. Theo bác Thẳng, vùng này trước có cây đa, giếng nước, nhưng bây giờ cây đa đã ngã, chỉ còn giếng nước lấp đầy cát. Cây cối um tùm và không còn dấu vết nấm mộ nào ở đây. Bác Thẳng nói, sau giải phóng, tỉnh đã cho quy tập tất cả mộ mà hầu hết vô danh về nghĩa trang liệt sĩ huyện. Như vậy chú tôi cũng đã được di dời trong số đó. Mấy năm trước, bố tôi đã làm việc với Ban CHQS huyện Ba Tơ, được các anh trả lời là không có tên chú Miệu trong sổ bộ liệt sĩ huyện quản lý và ngoài nghĩa trang cũng không có mộ chú, nhưng bố tôi vẫn muốn đến tận nơi chú hy sinh mới thỏa lòng. Tôi thắp hương bên cạnh giếng nước, cây đa, bồi hồi khi nghĩ đến chú sẽ rất vui mừng vì người thân đã đến tận đây tìm. Các chị trong đoàn cũng chia nhau thắp hương quanh khu vực bệnh xá.

Lúc này trời sẩm tối, chúng tôi tiếp tục vượt cơn mưa rừng để đến Gò Xuyên, nơi từng là an toàn khu. Mọi người thấm ướt và lạnh. Thấy bộ đội đến, bà con rất vui, tíu tít làm con heo nhỏ, đem rượu cần ra uống. Chị Loan, Xuyến tham gia làm bếp, nấu luôn trên sàn nhà. Mùi thơm của thịt nướng và làn khói từ nóc nhà sàn bay lên giữa hoàng hôn của rừng, thấy sao mà gần gũi, thân thương quá đỗi. Chúng tôi soạn bánh kẹo và hàng chục bộ quần áo cũ ra tặng đồng bào. Mâm cơm có đầy đủ già làng, trưởng bản và nhiều bà con hàng xóm. Ở đây không có điện lưới, chỉ có bóng điện nhỏ từ máy phát điện tận dụng sức nước dưới suối vậy mà tất cả quây quần đến tận khuya. Bà con nói lâu lắm mới có bộ đội lên nên phải uống cho thật say.

5 giờ sáng hôm sau, chúng tôi dậy, thật ngạc nhiên khi thấy các mế đã chuẩn bị từ bao giờ một nồi cháo thịt bốc khói. Bà con trong làng còn mang đến cho mấy gùi quýt và dâu rừng, căn dặn tôi phải mang bằng được về tặng đồng bào Hà Nội. Đi xuống dốc, ngoái lại, thấy đồng bào đứng nhìn theo, tôi thấy mắt mình cay cay trước tấm lòng mến khách và thủy chung với cách mạng của bà con nơi đây. Chúng tôi tiếp tục đi sâu vào làng, thăm bác Thành, CCB và tặng tiền, quà cho các hộ có hoàn cảnh khó khăn. Bà con bắt vội mấy con gà bảo đoàn mang theo ăn đường, nhưng chúng tôi nhất định không lấy.

Kể cho bố tôi nghe chuyến đi, ông rất cảm động khi Bộ CHQS tỉnh đã tạo điều kiện hết sức cho gia đình: “Dẫu không tìm được hài cốt của chú con, nhưng biết chắc mộ của chú đã được quy tập là nhà mình yên tâm rồi”. Bây giờ về Hà Nội, tôi vẫn nhớ mãi chuyến đi vô cùng vất vả mà đầy nghĩa tình cuối năm 2014. Qua những dòng chữ này, cho tôi bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến Bộ CHQS tỉnh Quảng Ngãi, các anh Bùi Tá Tuân, Khánh, Hải, Trình, chị Loan, Xuyến, em Hồng và bà con Gò Xuyên, Gò Rút của xã Ba Giang. Tình cảm ấm nồng ấy, chúng tôi không thể nào quên.

HỒNG VÂN(*)

(*) Ghi theo lời kể của anh Nguyễn Thế Phương.