QĐND - Chắc sẽ hiếm có người chỉ huy quân sự nào tham gia hoạt động báo chí nhiều như Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chủ nhiệm Chính trị mặt trận Điện Biên Phủ Lê Liêm. Cùng với núi công việc theo trọng trách của một Chủ nhiệm Chính trị mặt trận mà Bộ Tổng tư lệnh giao cho, ông đã chỉ đạo Báo Quân đội nhân dân xuất bản 33 số báo tại mặt trận, thực sự là vũ khí tinh thần hiệu quả. Hơn thế, ông còn trực tiếp viết hàng chục bài bình luận quân sự-chính trị sắc bén, dưới các bút danh Lê Liêm hoặc QĐND (Quân đội nhân dân-PV).

 

Nhà cách mạng ưu tú

Theo lời kể của người con trai thứ 6 của ông, Đại tá Trịnh Hồng Anh, Chính trị viên Viện Tên lửa (Viện Khoa học Công nghệ Quân sự -Bộ Quốc phòng) thì Lê Liêm tên thật là Trịnh Đình Huấn, quê gốc ở thôn Từ Dương, xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, Hà Nội. Ông sinh năm 1922 trong một gia đình nghèo, bố là một thợ sơn từng tham gia sơn cầu Long Biên, mẹ quê ở Thanh Hà, Hải Dương, là nông dân, buôn bán. Tuy vậy, ông được gia đình cho ăn học, học hết bậc học tương đương trung học cơ sở ngày nay. Vào tuổi thanh niên, ông sớm tham gia phong trào Mặt trận Bình dân những năm 1938-1939 và được kết nạp Đảng rất sớm, ở khoảng thời gian này. Ông được cử làm Ủy viên xứ ủy Bắc Kỳ.

Chân dung Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận Điện Biên Phủ Lê Liêm.

Năm 1942, ông bị địch bắt, đày đi nhà tù Sơn La. Hiện tại nhà tù còn có ảnh danh sách tù cách mạng và chi bộ nhà Sơn La có tên ông do mật thám Pháp chụp. Ông từng là người xác nhận cho đồng chí Văn Tiến Dũng sau khi vượt ngục để được hoạt động cách mạng trở lại.

Sau khi ra khỏi nhà tù Sơn La, ông tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng, chuẩn bị giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông tham gia tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Bần-Yên Nhân (Hưng Yên).

Cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra, ông lên hoạt động tại chiến khu, làm Chính trị ủy viên trong Ủy ban Kháng chiến Khu 1. Năm 1947, ông được cử giữ chức Phó phòng Dân quân (sau là Cục phó Cục Dân quân) thuộc Bộ Tổng chỉ huy. Năm 1948, ông được bổ nhiệm Cục trưởng Cục Dân quân. Năm 1949, ông được bổ nhiệm kiêm thêm chức Cục trưởng Cục Chính trị, tiền thân của Tổng cục Chính trị. Năm 1950, khi Cục Chính trị được nâng lên thành Tổng cục Chính trị trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh, ông được cử làm Cục trưởng Cục Tuyên huấn, sau đó là Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cho đến năm 1958. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông được tin tưởng giao trọng trách là chủ nhiệm chính trị 3 mặt trận: Chiến dịch Biên giới 1950, Chiến dịch Tây Bắc 1952, Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ông cũng là Chủ nhiệm báo (Tổng biên tập) đầu tiên của Báo Quân đội nhân dân trong thời kỳ 1950-1953.

Sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1958, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Năm 1964, ông là Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn giáo thuộc Phủ thủ tướng. Năm 1965-1973, ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Giáo dục. Tại Đại hội lần thứ 3 của Đảng, ông được bầu vào Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ông là người yêu thích văn học nghệ thuật, là hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Ông biết chơi đàn pi-a-nô và từng tìm thầy dạy pi-a-nô cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Dù cuộc đời, sự nghiệp nhiều thăng trầm nhưng ông luôn sống giản dị, thanh khiết, ông thường nói với các con “Đảng luôn trong trái tim tôi”. Ông qua đời năm 1985, thọ 63 tuổi. Những năm cuối đời, ông luôn tâm huyết với việc giáo dục truyền thống, nhất là Chiến thắng Điện Biên Phủ cho thế hệ trẻ. Năm 1964, nhân kỷ niệm 10 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, ông đã viết tác phẩm giao hưởng “Điện Biên Phủ sống mãi” được Đài Tiếng nói Việt Nam thu thanh và biểu diễn tại Nhà hát Lớn. Ông còn trực tiếp viết một cuốn truyện ngắn về đề tài Điện Biên Phủ cho thiếu nhi mang tiêu đề “Cuộc tiến công chiến lũy thép” được Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành. Truyện viết theo ngôn ngữ dành cho trẻ em, có kèm ảnh, sơ đồ, tư liệu về Chiến dịch Điện Biên Phủ, được thiếu nhi thời đó rất thích.

Hiện nay, tại Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ còn trưng bày chiếc đèn bão ông sử dụng ở hầm Mường Phăng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại di tích Sở chỉ huy chiến dịch tại Mường Phăng hiện vẫn lưu giữ di tích hầm và lán làm việc của ông, cách hầm và lán Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp không xa.

Người chủ nhiệm gần gũi, ngòi bút chính luận sắc sảo

Trở lại với việc chỉ đạo Báo Quân đội nhân dân tại Mường Phăng, hầm làm việc của đồng chí Lê Liêm chỉ cách Tòa soạn tiền phương một cánh đồng. Chính tại bàn làm việc trong căn lán đơn sơ ở Mường Phăng, đồng chí Lê Liêm đã cho ý kiến, chỉnh sửa từng số báo trước khi xuất bản. “Viết báo cũng là công việc mà bố tôi rất yêu thích và tâm huyết, dù sau này đảm nhận nhiều cương vị lãnh đạo khác, tình cảm của cụ với Báo Quân đội nhân dân nói riêng và báo chí nói chung luôn thật nồng ấm”- Đại tá Trịnh Hồng Anh kể.

Phó chủ nhiệm TCCT Lê Liêm (ngoài cùng, bên trái) họp với Ban Biên tập Báo Quân đội nhân dân tại hang Thẩm Púa, tháng 1-1954. Ảnh do gia đình ông Lê Liêm cung cấp.

Là Chủ nhiệm Chính trị mặt trận, ủy viên Đảng ủy Mặt trận, một chức vụ rất “to” nhưng Lê Liêm là người gần gũi, chân thành với cấp dưới. Nhà báo lão thành Nguyễn Khắc Tiếp, một trong những người được tiếp xúc với ông nhiều nhất ngày đó, kể lại: “Anh Lê (cách gọi thân mật ông Lê Liêm ngày ấy-PV) là một con người rất dễ gặp, dễ chuyện, rất thân tình với anh em. Gặp điều gì tâm đắc, anh cười cứ ha hả, cười rất tươi. Anh viết rất giỏi, rất hay, rất nhanh, rất gọn. Bởi vì anh có chất một người làm văn hóa, từng viết Báo Quân du kích, tiền thân của Báo Quân đội nhân dân. Tuy là cấp trên, nhưng anh có tính dân chủ cao, thường đưa những bài anh viết cho chúng tôi xem, đọc và góp ý. Anh gần gũi với cơ sở, với bộ đội nên anh không chỉ viết nhiều mà còn viết những vấn đề rất cụ thể, rất thiết thực với đời sống”.

Trong hồi ức của mình, cố nhà báo Trần Cư cũng kể về tác phong làm việc miệt mài, gần gũi cấp dưới của ông Lê Liêm: “Khi tôi sang lán của anh để lấy bài cho báo như anh đã hẹn, anh đưa bài cho tôi, rồi bảo:

- Cậu đọc đi rồi cho biết ý kiến!

Tôi đọc. Bài ngắn thôi, và bảo:

- Tôi cứ ngỡ viết bài lãnh đạo thì anh sẽ hô nào “tăng cường”, nào “ra sức”, nhưng tôi lại thấy đây là một bài tùy bút nhỏ chân thành. Một sáng kiến mới trong việc viết bài lãnh đạo mà tình cảm.

- Tình cảm đối với Bác Hồ kính yêu!-Anh thêm.

Tôi cũng thêm luôn:

- Đúng, nhất là đối với Bác Hồ. Bác trong vắt như kim cương. Nên tình cảm phải chân thành, nếu như vàng giả, thì có dán khéo vào nó cũng rụng luôn! Không thể nói dối được!

Anh ré lên cười há há, điệu cười rất quen thuộc, hai mắt tít lại như hai sợi chỉ rồi bắt tay tôi:

- Đúng! Đúng! Cảm ơn cậu!

Tôi về lán, cũng lây cái chân thành hồn nhiên của anh bèn viết luôn bài tùy bút Hoa găng vẫn đỏ, đăng trong số 121 ấy, để cùng tỏ quyết tâm!

Lần giở lại 33 số báo tại mặt trận, không khỏi kinh ngạc vì bận trăm công nghìn việc, Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận Lê Liêm vẫn viết tới hàng chục bài chính luận đăng trên trang nhất, mà ngày nay chúng ta thường gọi là những bài “đinh”. Theo nhà báo Phú Bằng: “Những bài ông Lê Liêm viết ra, gần như các sĩ quan cao cấp nhất, mọi chính ủy sư đoàn, trung đoàn đều phải đọc rất kỹ. Đó là những bài mang tính chỉ đạo, gắn với những ý đồ chiến lược. Trong trường hợp này, tờ báo giữ vai trò như một Chính ủy. Đôi khi, trong những bài đó còn cài một vài ý nào đó để đánh lừa quân địch. Vì chúng cũng sẽ đọc rất kỹ những bài ký tên Lê Liêm”.

 

Nhà báo Trần Cư gọi những bài báo của Lê Liêm là những bài lãnh đạo tư tưởng. Trong 10 số báo trong giai đoạn chuẩn bị chiến dịch, ông viết tới 11 bài. Cảm hứng 3 bài đầu là tình cảm sâu nặng kính yêu đối với Bác Hồ. Có khi, câu nói của Bác Hồ trong một lớp quân sự: “Đối với bộ đội, đối với kháng chiến, các chú trực tiếp phụ trách! Quyết tâm không?” cũng được ông lấy cảm hứng viết thành một bài chính luận xúc động như thơ: “Tiếng Người rộng rãi và mênh mông, đanh thép mà dịu dàng, cương quyết mà đầy tình thương yêu!”.

 

Có lúc, ông viết tới 3 bài về kiểm tra vũ khí và 1 bài về "Cần trông nom sức khỏe của bộ đội" đều ngắn gọn độ 300 chữ, giọng văn rất chân tình nhưng lại để giải quyết vấn đề rất nghiêm trọng: Vũ khí hư hỏng, mất mát. Lời văn của ông thẳng thắn, thiết tha: “Những cán bộ và chiến sĩ để hư hỏng và mất vũ khí là những người có tội rất nặng đối với nhân dân. Những vũ khí trên là do mồ hôi nước mắt của nhân dân mới có, là do nhiều liệt sĩ đã hy sinh đổ máu mới giành giật được. Những người không biết yêu quý vũ khí như thế nghĩ thế nào? Đã làm lợi gì cho Tổ quốc và nhân dân mà lại lãng phí nhiều như vậy?”.

“Loạt bài của Chủ nhiệm Chính trị mặt trận Lê Liêm cũng có đặc điểm ngắn gọn, góp phần xây dựng tư tưởng và quyết tâm của bộ đội một cách thiết thực, kịp thời và thật chân tình như con người hằng ngày của anh vậy”-nhà báo Trần Cư nhận xét.

60 năm đã trôi qua, giờ đây đọc lại những bài chính luận ký tên Lê Liêm trên 33 số báo ngày ấy như vẫn còn nóng hổi tính thời sự. Những bài báo ấy vẫn thể hiện một phong cách chính luận mẫu mực đối với những người làm báo quân đội hôm nay. Đặc biệt, tác giả của nó đã ghi một kỷ lục hiếm có trong lịch sử báo chí khi một nhà lãnh đạo giữa chiến trường lại trực tiếp cầm bút viết khỏe, viết hay như vậy.

NGUYÊN MINH – TRƯỜNG GIANG