QĐND - Chúng tôi biết Nguyễn Hanh Tú trong Lễ thành lập Tiểu đoàn 39. Đó là ngày 15-3-1948, tại sân vận động Minh Huy, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Lúc này, anh là phái viên của Trung đoàn 108 xuống giúp tiểu đoàn tổ chức buổi đồng diễn. Sau đó, anh chính thức về Đại đội 1 phụ trách Đại đội phó. Vừa về đơn vị, dưới sự chỉ huy của anh, ngày 6-11-1948, tại ga Phú Cang, đơn vị bắn rơi chiếc máy bay Mô-ran 500, bắt sống 3 sĩ quan Pháp.
 |
Minh họa: Phạm Hà. |
Đến năm 1949, đơn vị được điều vào Quảng Ngãi để huấn luyện quân sự. Sau 3 tháng huấn luyện, đơn vị rời Quảng Ngãi về mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng. Trước khi đơn vị có lệnh về mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng, Nguyễn Hanh Tú đã có quyết định điều về làm Bí thư cho đồng chí Nguyễn Chánh-Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 5. Chiều 1-5-1949, ra đi từ Mộ Đức, khoảng 23 giờ ngày 3-5-1949, đơn vị về đến thị xã Tam Kỳ, thấy anh em mỏi mệt, chỉ huy đại đội cho bộ đội tạt vào các nhà dân hai bên đường tạm nghỉ, sáng mai đi tiếp. Lúc này, anh Lê Đình Luân là Đại đội trưởng, là cán bộ quân sự nhưng cũng là nhạc sĩ. Tú coi anh Luân như người anh ruột. Đêm đó, tại Tam Kỳ, tôi trải chiếu nằm bên hai anh. Hai anh nói chuyện suốt đêm không ngủ, dưới mái hiên của một ngôi nhà tranh nhỏ ven đường. Mệt quá, tôi thiếp đi, mỗi lần tỉnh giấc lại nghe tiếng rì rầm tâm sự của hai anh...
Trời mờ sáng, cả đại đội tập hợp lên đường. Bộ phận đi đầu vừa cất bước thì hai máy bay địch ập tới. Chúng lượn một vòng, cả đơn vị nằm rạp bên đường. Hai tiếng bom nổ xé trời, khói bụi mù mịt, mặt đường rung chuyển. Bom nổ xong, đơn vị lại tiếp tục hành quân. Đi chưa được trăm mét mới biết, khi đơn vị ra đường, hai anh vẫn còn đứng trong sân của nhà dân, loạt bom giặc rủi thay lại rơi đúng vào nơi hai anh đứng: Tú chết, Luân bị thương nặng. Một cái tin khiến đơn vị rụng rời. Nhớ đêm liên hoan quân-dân trước lúc chia tay, bài hát Có những nấm mồ của các anh phải chăng là lời trăng trối: “Lạnh lùng mồ hoang, chiều chiều mờ sương, khi cánh chim ngừng, tìm trong bốn phương, đợi bóng con về…”. Đây là đoạn nhạc buồn của anh Luân và lời thê thảm xót xa là của anh Tú.
Anh Luân 15 ngày sau thì qua đời. Anh Tú hy sinh khi tuổi đời còn quá trẻ, chưa tròn 21, một cán bộ đầy tài năng. Nhớ anh trong trận Thanh Quýt, bắn hết đạn, bị thương, mặt đầy máu, vẫn không chịu rời trận địa. Di vật anh để lại có hai cuốn sổ. Một của đồng chí Phạm Văn Đồng tặng, một của đồng chí Cao Văn Khánh, Khu trưởng Khu 5 tặng, với dòng chữ: “Tặng Nguyễn Hanh Tú-chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, để ghi chép những chiến công sau trận Thanh Quýt”.
Đã mấy chục năm rồi, câu chuyện về anh tôi vẫn còn nhớ mãi và vẫn luôn canh cánh kiếm tìm quê hương anh.
Cũng tưởng sự đời trôi theo năm tháng, không ngờ có người đọc được cuốn Lịch sử Tiểu đoàn 39 và biết được băn khoăn của tôi về đồng chí Nguyễn Hanh Tú, đã cố tìm và báo cho tôi biết là quê anh ở làng Dương Nổ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Cha anh là ông Nguyễn Hanh, cha mẹ anh đều đã qua đời.
Anh Tú ơi! Giờ đây, tên anh đã có trên Bảng vàng ghi công của Tổ quốc.
VÕ VĂN MINH (Đại tá, nguyên Trưởng phòng Lịch sử, Quân khu 4; nguyên Thư ký Đại đội 1, Tiểu đoàn 39, Trung đoàn 108)