Kỳ 4: Người cầm ngọn cờ chuẩn của Tàu 56
QĐND - Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy gian khổ, hy sinh, người chính trị viên kiêm bí thư chi bộ trên những con tàu không số có vị trí hết sức quan trọng cho mỗi chuyến đi. Vì thế, mọi chính trị viên luôn được cán bộ, thủy thủ ở từng con tàu kính trọng, tôn vinh với cụm từ “Người cầm ngọn cờ chuẩn của tàu”. Ông Đỗ Văn Sạn, nguyên Chính trị viên Tàu 56 chính là người “cầm ngọn cờ chuẩn” một cách vững chắc trong 12 chuyến xuất quân đều thu được thắng lợi.
Chúng tôi nghe chuyện về Chính trị viên Đỗ Văn Sạn thông qua một người đồng đội, cựu chiến binh Trần Tiền Vệ. Bằng chất giọng trầm ấm của người đã bước vào tuổi xưa nay hiếm, người thủy thủ Tàu không số năm nào say sưa kể về chính trị viên của mình: "Người cầm cờ chuẩn của đơn vị tôi hồi đó, con tàu không số nhưng thực chất mang số hiệu 56 ấy, là đồng chí Trung úy Đỗ Văn Sạn. Anh quê ở Thiệu Sơn, Thiệu Hóa, Thanh Hóa; trước ngày nghỉ hưu là Trung tá, Chính ủy Trường Sĩ quan Kỹ thuật Hải quân. Thời gian ở Đoàn tàu không số, anh cùng với thuyền trưởng lãnh đạo, chỉ huy nhiều con tàu khác nhau chở vũ khí vào Nam Bộ với 12 lần hành quân an toàn tuyệt đối. Trong đó, ấn tượng khiến tôi nhớ nhất về anh, về người “cầm cờ chuẩn của đơn vị” là chuyến chở vũ khí bằng Tàu 56 vào bến Lộ Diêu (Bình Định) đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968".
 |
Ông Đỗ Văn Sạn. |
Đêm ấy, Bộ tư lệnh Hải quân chỉ thị cho chỉ huy Đoàn tàu không số điều động 4 tàu, cùng nhổ neo vào dịp Tết. Các tàu vào bến ở xa như Tàu 165 vào bến Cà Mau, Tàu 235 vào bến Vũng Rô thì xuất phát trước, Tàu 56 của chúng tôi vào bến Lộ Diêu (Bình Định) và Tàu 43 vào bến Ba Làng An (Quảng Ngãi) thì xuất phát chậm hơn.
Tuy xuất phát khác nhau nhưng theo hiệp đồng, nhất thiết đúng giờ G đêm Giao thừa thì 4 tàu phải đồng loạt vào bến. Kế hoạch hành động như vậy là để phân tán sự theo dõi của địch. Nếu chúng tăng cường lực lượng canh phòng ở cửa biển này thì sẽ lơ là mất cảnh giác ở cửa biển khác. Và nếu khi chúng phát hiện ra một trong 4 tàu thì tàu đó có nhiệm vụ cơ động, thu hút sự theo dõi của chúng để cho 3 tàu còn lại dễ bề đột nhập vào bến an toàn. Thế nhưng, đêm giao thừa năm ấy, địch tăng cường tuần tra khắp các bến vào của ta. Và chúng đã phát hiện ra Tàu 165 vào bến Cà Mau, Tàu 43 vào bến Ba Làng An, Tàu 235 đổ bộ bến Vũng Rô. Cả 3 tàu vào đều bị lộ thì nghĩa là địch đã chuẩn bị phương án tấn công đầy đủ. Và cả 3 tàu trên khi không thể lừa được địch đều chủ động chiến đấu quyết liệt. Cuộc chiến đấu của cả 3 con tàu giờ đã đi vào sử sách, gắn liền với tên tuổi những thủy thủ anh hùng. Tàu 165 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm đã bị 8 tàu địch bao vây. Các anh đã chiến đấu đến người cuối cùng và hủy tàu để không lọt vào tay địch. Tàu 235 do Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy đã phá hủy tàu rồi đánh một trận quyết tử, hy sinh 14 thủy thủ, trong đó có cả thuyền trưởng và chính trị viên. Tàu 43 vào Ba Làng An bị 6 tàu địch và máy bay bao vây, sau khi hủy tàu đã chiến đấu dũng cảm, 3 người hy sinh, 13 người bị thương. Những người còn sống đã làm cuộc hành quân thần kỳ qua đường mòn Trường Sơn, tìm về đơn vị, nhận lại tàu mới để tiếp tục chiến đấu.
Sự việc và diễn biến của 3 tàu bạn, chỉ huy Tàu 56 đều biết thông qua điện đàm với cấp trên. Nhưng Chính trị viên Đỗ Văn Sạn vẫn vững vàng, động viên cán bộ, thủy thủ trên tàu hành động theo kế hoạch đã định. Lúc đó, Tàu 56 cũng bị 3 tàu tuần dương hạm của Mỹ nổ súng bắn uy hiếp. Chúng ép Tàu 56 phải dừng chạy để đến kiểm tra. Trong tiếng sóng to lẫn những tiếng súng máy bắn thị uy quanh tàu, Chính trị viên Sạn vẫn đến từng vị trí trên tàu động viên. Anh nói: “Các đồng chí cần hết sức bình tĩnh, không để mắc mưu địch. Chúng chỉ bắn uy hiếp thế này có nghĩa là chúng chưa phát hiện ra hành tung của ta, chỉ nghi ngờ nên hăm dọa thế thôi”.
Trong giờ phút căng thẳng ấy, Đỗ Văn Sạn đã trao đổi nhanh với Thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba. Cả hai anh cùng thống nhất là địch mới chỉ nghi ngờ chứ chưa biết rõ ta. Hội nghị cấp ủy diễn ra, Bí thư chi bộ Sạn trình bày nhận định của mình về diễn biến tình hình địch và tình huống có thể xảy ra nếu ta cho tàu vào. Quyết định cuối cùng, chi ủy quyết định cho tàu quay ra nắm tình hình, chờ thời cơ quay vào.
Tàu quay ra từ 21 giờ đến 0 giờ vẫn không gặp địch. Ít phút sau, anh em đột nhiên nghe thấy tiếng ào ào, pháo sáng từ tàu địch bắn lên, 4 tàu địch đồng loạt bật đèn pha rọi về phía tàu ta. Hai chiếc bên phải, hai chiếc bên trái cách tàu ta chừng 300m. Đến gần một giờ sáng thì có một chiếc ca nô định xông tới, đi chính ngang phía tàu ta, nhưng tàu ta vẫn giữ vững tốc độ tối đa. Khi cách tàu ta chừng 30m chúng mới quay ra, sau đó lại có một ca nô khác xông tới. Chính trị viên Sạn động viên anh em bình tĩnh thi gan đấu trí với chúng, vì địch vẫn chưa biết chắc là tàu ta. Sở dĩ, Tàu 56 có thể gan lỳ như thế vì trước thời điểm đó, đã xảy ra một số vụ tàu chiến Mỹ nghi ngờ tàu không số nên bắn nhầm cả tàu một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản… bị các nước đó lên án mạnh mẽ. Vì thế, lần này chúng không dám bắn trúng nếu không biết chắc đó là tàu của “Bắc Việt”. Anh Sạn đã nhắc nhở từng vị trí không được manh động khi chưa có lệnh, tuyệt đối không ai được nổ súng.
Đến hai giờ sáng, địch vẫn gọi dừng lại để chúng kiểm tra, nếu không chúng sẽ bắn, nhưng tàu vẫn thẳng tiến như chẳng có chuyện gì xảy ra. Anh Sạn nói với cả tàu: ''Nếu chúng ta dừng lại lúc này coi như đã đầu hàng chúng". Địch lại bắn nhiều loạt liên thanh nhưng đạn đi trên cao và xa. Đến 3 giờ sáng, báo vụ báo cáo, có một tàu khu trục chặn phía trước tàu ta 30 hải lý. Thuyền trưởng hỏi: “Ta phải xử lý thế nào”. Anh Sạn nêu phương án: "Nếu chúng có ý định chặn tàu ta, ta quyết tâm đánh chìm tàu trước mũi chúng dù phải hy sinh để giữ bí mật cho con đường". Rồi anh lệnh: “Chuẩn bị ổ chập bộc phá, đưa lên đài chỉ huy cho tôi, tôi đi kiểm tra toàn bộ vị trí chuẩn bị bom chìm và bộc phá nổi". Trước tinh thần quyết tử của anh, tất cả anh em trên tàu đều coi cái chết tựa lông hồng. Mọi người đều sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh.
Khi tàu ta còn cách tàu địch chừng một hải lý, Bí thư Chi bộ Đỗ Văn Sạn ra lời kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ Tàu 56: “Tình hình lúc này hết sức khẩn trương, địch có phương tiện, vũ khí, binh lực gấp hàng trăm lần, chúng định bắt sống ta nhưng đây cũng là điều kiện để ta đánh chìm tàu khu trục của địch ở Biển Đông. Lúc này, Tổ quốc và nhân dân đang cần chúng ta, khi có lệnh tất cả tập trung hỏa lực quyết tâm đánh chìm tàu khu trục trước mũi tàu. Tổ quốc và nhân dân sẽ không bao giờ quên chúng ta. Các đồng chí có quyết tâm không?” Toàn tàu đồng thanh hô to, át cả tiếng máy, tiếng sóng biển: “Quyết tâm, quyết tâm, quyết tâm”.
Tàu 56 vẫn kiêu hãnh tiến thẳng về phía tàu địch, ý định của chúng tôi là húc thẳng vào tàu địch, ấn nút điện bộc phá cho nổ tàu ta, đồng thời đánh chìm tàu địch, đây là sức mạnh lớn nhất của con tàu. Khi tàu ta cách tàu địch chừng 100m, các vị trí đã sẵn sàng chiến đấu, máu trong lồng ngực cán bộ, thủy thủ như trào lên… Khoảng cách giữa tàu ta và tàu địch ngày một gần. Trận quyết tử chỉ còn tính bằng giây lát. Bỗng báo vụ báo cáo: “Tàu địch bỏ chạy, ta phá được thế bao vây của địch”. Đến gần sáng, địch lại bắn nhiều loạt đại bác nhưng cách xa tàu ta chừng 200m, Tàu 56 vẫn đi như không có chuyện gì xảy ra. Khi trời sáng hẳn, tàu khu trục cũng nản dần, chỉ còn một chiếc bám theo. Tình hình đã giảm mức độ nguy hiểm. Thuyền trưởng và Chính trị viên cho tàu giảm tốc độ, tổ chức để bộ đội ăn nghỉ cho lại sức, đồng thời chờ thời cơ quay vào.
Từ tình hình diễn biến đêm hôm đó, cấp trên điện cho Tàu 56: “Tình hình hết sức khẩn trương, toàn tàu cần phải bình tĩnh linh hoạt, không về A2 mà đi thẳng về Thượng Xuyên, Trung Quốc”. Trên đường quay về, vẫn có một tàu địch bám theo nhưng cách tàu ta với cự ly 5 hải lý. Cứ cách một giờ lại có máy bay địch bay dọc, bay ngang, chụp ảnh tàu ta. Khi Tàu 56 cách Thượng Xuyên 10 hải lý thì chúng mới không bám theo nữa.
Khi chúng tôi về đến vị trí an toàn thì nhận được điện của cấp trên: “Chuyến công tác vừa qua, tuy chưa giao được hàng nhưng các đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thứ hai, qua đó giúp cho Đoàn có kinh nghiệm chỉ đạo trong các chuyến công tác tiếp theo”.
Kể đến đây, bác Trần Tiền Vệ kết luận: “Tàu chúng tôi may mắn trở về căn cứ an toàn là nhờ có một phần công sức, trí tuệ của “người cầm ngọn cờ chuẩn” Đỗ Văn Sạn. Trong tình thế “nghìn cân treo sợi tóc” Chính trị viên Sạn vẫn nhất mực bình tĩnh, sẵn sàng đón nhận hy sinh nhưng phải hoàn thành nhiệm vụ ở mức tốt nhất có thể. Bài học này học được từ anh đã giúp chúng tôi rất nhiều trong những chuyến công tác về sau và kể cả khi đã về với cuộc sống đời thường”.
-------------
Kỳ 1: Anh hùng Bông Văn Dĩa - cá kình Biển Đông
Kỳ 2: Bản lĩnh anh hùng Đặng Văn Thanh
Kỳ 3: Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu - sự “trở về” kỳ diệu
Kỳ 5: Người kể chuyện đường mòn trên biển
Hải Dũng - Nguyễn Hương