Kỳ 3: Từ du kích trở thành thuyền trưởng

QĐND - Từ một du kích trưởng thành thành một thuyền trưởng “tàu không số” dày dạn kinh nghiệm với hàng chục chuyến chở vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ. Mỗi chuyến đi là một câu chuyện, một kỷ niệm, nhưng theo ông hồi ức đáng nhớ nhất là “chuyến đón tàu Phương Đông 1 của Chính trị viên Bông Văn Dĩa, Thuyền trưởng Lê Văn Một, ngày 16-10-1962 tại Vàm Lũng-Cà Mau...”. Ông là Nguyễn Xuân Thơm, hiện sống tại 15/7A Đoàn Như Hài, phường 12, quận 4, TP Hồ Chí Minh.

Ông kể, cuộc đời trai trẻ của mình đã gắn trọn với con đường vận chuyển trên Biển Đông, chở vũ khí cho miền Nam đánh Mỹ. Ông đã tham gia 16 chuyến vượt biển, 10 chuyến thành công, đã từng chỉ huy Tàu HQ-673 chở các lực lượng đặc công đi giải phóng quần đảo Trường Sa, nhưng thực sự câu chuyện “đón chiếc tàu Phương Đông 1 của bác Một, bác Dĩa” làm ông nhớ mãi, không sao quên được.

Nguyễn Xuân Thơm sinh ra và lớn lên ở xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Từ nhỏ đã được chứng kiến sự độc tài, thối nát của chế độ gia đình họ Ngô. Luật 10/59 của Ngô Đình Diệm đã lê máy chém đi khắp miền Nam gây ra bao nhiêu tội ác dã man với đồng bào. Quê hương, xóm làng bị chìm ngập trong cái gọi là “khu trù mật”. Căm thù giặc Mỹ, Nguyễn Xuân Thơm đã đi theo cách mạng, vào vùng giải phóng, gia nhập đội dân quân du kích Ấp 7 ở quê hương, sau đó ông được chuyển về trung đội du kích xã làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ căn cứ cách mạng, tính mạng và tài sản nhân dân.

Ông Nguyễn Xuân Thơm (bên trái) cùng đồng đội.

Ông kể, ngày đó cơ sở vật chất cách mạng còn nghèo nàn lắm. Để chống lại các cuộc càn quét của giặc hay phá tan các “khu trù mật” mở rộng vùng giải phóng, đơn vị ông chỉ có trang bị vũ khí thô sơ như súng kíp, lựu đạn, mìn tự tạo, vũ khí đạp lôi làm bằng chai đựng nước, và một loại vũ khí không thể thiếu được đó là chông hầm và chông bàn (đây là loại vũ khí được coi là lợi hại nhất)... Ngoài ra còn có hai khẩu súng trường, ba súng kíp tự làm bằng ống xe đạp cộng với một số lựu đạn lấy được của giặc và lựu đạn mỏ vịt tự làm.

- Vũ khí thô sơ, thiếu thốn. Vậy mà hai năm trời đơn vị phải chiến đấu với hàng chục trận càn của địch, đối đầu với hàng trăm tên địch được trang bị nhiều vũ khí hiện đại, cùng nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, san bằng khu trù mật, thủ tiêu chính quyền ngụy, lập lại chính quyền cách mạng, xây dựng quê hương làng xóm thân yêu của mình! Ông kể với giọng đầy sôi nổi, tự hào, gương mặt ánh lên niềm vui rạng rỡ.

Khoảng giữa năm 1962, ông và một người đồng chí được chuyển công tác về đơn vị mới mà “hoàn toàn chưa biết gì về đặc điểm và tính chất hoạt động của nó”. Về sau mới biết đó là đơn vị TN-3175, thuộc quân khu miền Tây Nam Bộ, trực thuộc Trung ương Cục miền Nam. Tại đây anh em luôn được sự đùm bọc của nhân dân xóm “ấp Máng Gào” thuộc xã Viên An-căn cứ cách mạng hồi kháng chiến chống Pháp, mang truyền thống của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 và cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai của anh hùng Phan Ngọc Hiển năm xưa, giờ còn gây tiếng vang khắp vùng. Nơi đây đã trở thành căn cứ cách mạng kháng chiến. Nhiều đồng chí khác từ các xã: Khánh Bình Tây, Khánh Bình Đông, Khánh Lâm thuộc huyện Trần Văn Thời... cũng được điều về đơn vị. Mọi người sống vui vẻ, chan hòa như anh em một nhà, hằng ngày được học tập chính trị, phổ biến nắm bắt tình hình nhiệm vụ mới. Sau mười ngày học tập đơn vị phân công mỗi người một nhiệm vụ khác nhau.

- Tôi được phân về trung đội vũ trang bảo vệ căn cứ và cơ quan, còn các bộ phận khác đều có nhiệm vụ riêng. Sau đó chúng tôi được Trung ương giao nhiệm vụ chuẩn bị mua ghe tàu, lắp máy trang bị ngụy trang, lo giấy tờ hợp pháp trong vùng địch. Sau ba tháng tích cực chuẩn bị, lo lót chính quyền ngụy, chúng tôi đã có ghe, đầy đủ các loại giấy tờ hợp pháp như giấy đăng ký ghe, thuyền, giấy ngư phủ, giấy hành nghề của hợp tác xã đánh cá của ngụy. Tất cả đã sẵn sàng. Ông Thơm kể.

Một ngày đầu tháng 10-1962, đơn vị nhận được lệnh sẵn sàng ghe, thuyền để đón nhận vũ khí từ miền Bắc vào. Kể sao hết niềm vui sướng của anh em bến bãi trước tin vui này. Mọi người phấn khởi, hối hả làm việc quên cả ngày đêm, kiểm tra ghe, lưới, sửa chữa máy móc, ngư cụ... Vậy là đồng bào miền Nam sẽ có vũ khí hiện đại để chống lại các cuộc càn quét, tấn công tận sào huyệt tiêu diệt kẻ thù, mở rộng vùng giải phóng. Từ hôm đó, 4 anh em gồm: Tư Lưới - người được giao nhiệm vụ phụ trách bến, Chín Thuân, Dũng (Miên) và ông Thơm hằng đêm đưa ghe ra biển giả vờ đánh bắt cá để nắm tình hình. Ban ngày, anh em lại thu lưới vô rừng ẩn giấu.

- Những ngày ấy căng thẳng đến ngộp thở. Ông Thơm bùi ngùi nhớ lại. Chúng tôi ngày không dám ngủ, nơm nớp hồi hộp chờ đêm xuống là ra biển ngay. “Ngư trường” của chúng tôi cách bờ từ 3 đến 10 cây số, anh em thay nhau trực canh, mắt luôn nhìn ra biển, hướng đến những dấu hiệu nhỏ nhất, kể cả một ánh chớp lạ trên mặt biển đen bầm thẫm mênh mông. 10 ngày đêm chỉ với mỗi việc giả vờ thả lưới, rồi lại kéo lên, trong một khu vực. Mỗi khi thuyền trôi khỏi “ngư trường”, anh em lại điều khiển ghe ngược dòng, về vị trí cũ, rồi lại thả lưới. Cứ thế! Công việc thật vất vả! Tấm lưới đâu có nhỏ bé chi! Dài tới 200-300 mét. Kéo lên, thả xuống! Ai đấy đều mệt nhoài! Nhưng cứ nghĩ tàu sắp chở vũ khí về, mọi mệt mỏi tiêu luôn! Nhưng cũng chính sự “làm việc tích cực đó” đã che mắt, đánh lạc hướng bọn địch!

Ông Nguyễn Xuân Thơm cùng người nhà bên mộ Anh hùng LLVT nhân dân Bông Văn Dĩa.

Kể đến đây ông cười giòn giã, ánh lên niềm vui sướng khiến chúng tôi cũng phải bật cười mà nước mắt cứ chực trào khi hình dung cảnh kéo lưới “nghi binh” suốt 10 đêm mịt mùng của 4 chàng “lực điền” mà “chẳng bắt được con cá nào...”.  Đến ngày thứ 11, khoảng 6 giờ sáng ngày 16-10-1962, mọi người nhìn thấy một chiếc tàu rất to thấp thoáng, xa xa ngoài cửa Vàm Lũng, sóng nước bọt trắng xóa.

- Treo cờ tín hiệu lên! Tư Lưới vui mừng ra lệnh. Đèn pin đâu? Sáu Thơm khẩn trương đánh tín hiệu đèn pin! Không khí trên ghe sôi động hẳn. Hồi hộp, tôi lấy chiếc đèn pin, có bịt giấy đỏ để hở một lỗ nhỏ, đánh liền ba chớp dài. Ngoài kia, con tàu vẫn lừ lừ chạy theo hướng sát mép bờ, trên đỉnh có treo cờ và rồi, hai chớp đèn pin nháy dài đánh tín hiệu trả lời.

- Đúng rồi! Đúng tàu ta rồi! Chúng tôi reo to, ôm chầm lấy nhau sung sướng! Hoan hô! Tàu ông Dĩa đã về! Chúng tôi tiếp tục đánh tín hiệu đèn pin, ra lệnh: “Anh đi theo tôi!” Chiếc tàu lù lù, lừng lững đi vào hướng bến, tới rạch Chùm Gọng.

Chuyến vận chuyển vũ khí đầu tiên vào miền Nam đã thành công. Mọi người nghẹn ngào, ùa đến, tay bắt mặt mừng, ôm hôn thắm thiết thuyền trưởng Lê Văn Một, chính trị viên Bông Văn Dĩa, thợ máy Năm Sao, Sáu Lai, Năm Kỷ... những người con anh hùng của đồng bào miền Nam, đã vượt qua vòng vây phong tỏa của giặc thù, qua phong ba bão tố chở vũ khí cho đồng bào miền Nam đánh Mỹ. Niềm hạnh phúc thật lớn lao! Hàng chục chiếc ghe, xuồng lập tức ghé tới bốc hàng. Những thùng vũ khí còn nguyên mùi sơn mới, mùi khét dầu mỡ, nhanh chóng được vận chuyển cất giấu ở nơi khác. Suốt 3 ngày đêm vất vả mới vận chuyển hết số hàng và vũ khí tàu Phương Đông 1 chở về.

Vậy là con đường biển nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn không còn là dự định, là mong ước mà đã trở thành hiện thực. Chuyến đầu tiên thắng lợi làm tiền đề cho những chuyến đi tiếp đó thành công. Chúng tôi đã liên tục đón thêm 3 chuyến tàu nữa tại đây. Đồng chí Tư Đức - người phụ trách bến vui mừng khôn xiết, xúc động nói với các cán bộ, thuyền viên: “Các đồng chí không chỉ đưa vũ khí vào cho chúng tôi, mà còn mang cả tình thương của Đảng, của Bác, của đồng bào miền Bắc với miền Nam ruột thịt; tiếp sức để miền Nam chiến đấu giải phóng quê hương”.

Một năm sau, tôi ra Bắc nhận nhiệm vụ mới và đã trải qua nhiều chuyến đi, nhiều trận chiến đấu, tôi đã trưởng thành, từ một chiến sĩ trở thành thuyền trưởng của Đoàn tàu Không số anh hùng và huyền thoại trên Biển Đông.

-----------

Kỳ 1: Thuyền trưởng tàu không số đầu tiên

Kỳ 2: Thuyền trưởng tàu sắt đầu tiên

Kỳ 4: Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử

Bài và ảnh: Trịnh Dũng – Thu Hương