“... Hồi ba tuổi, tôi mất mẹ. Thuở lên tám, tôi mồ côi cha. Mười năm sau, tôi vào bộ đội. Trong quãng thời gian quân ngũ, tôi may mắn được ở trong đơn vị bảo vệ Bác, được chứng kiến cuộc sống bình dị, rất đỗi đời thường của vị lãnh tụ kính yêu. Bốn năm ngắn ngủi mà vô cùng quý

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: Internet

báu ấy, tôi được nghe những lời răn dạy, chỉ bảo ân cần và cảm nhận sâu sắc tấm lòng bao dung, cái tâm trong sáng của Người... Đó chính là thước đo, là động lực, là lẽ sống của đời tôi…”- Lời tâm sự mà ông Nguyễn Sĩ Ban mở đầu buổi trò chuyện với chúng tôi vào một ngày cuối tháng 5-2008.

Bài học quý từ những điều giản dị

Hình ảnh “bắt mắt” nhất, ùa ngay vào nhãn quan của chúng tôi khi đặt chân tới căn nhà đơn sơ của ông Nguyễn Sĩ Ban (thôn Rọ Phải, xã Mai Pha, TP Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn) là bức ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh được treo ở vị trí trang trọng nhất, bên cạnh là tấm hình một chiến sĩ đứng gác bên ngôi nhà sàn của Bác Hồ. Chỉ tay lên tấm ảnh người chiến sĩ đứng gác, ông Ban nói với nụ cười đầy hãnh diện: “Tôi hồi mới chuyển về đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ Bác đấy! Mỗi khi nhìn vào tấm hình, tôi thầm cảm ơn anh thợ ảnh, “chộp” được khoảnh khắc đẹp nhất mà bấm máy, lưu lại thời khắc quý báu và tự hào nhất của đời tôi”.

Kỷ niệm thiêng liêng trong những tháng ngày được phục vụ Bác Hồ cứ hiện dần lên qua từng bức ảnh về Người mà ông Ban lưu giữ cẩn trọng như bảo vật suốt bao năm qua. Ông kể:

- Năm 1963, tôi nhập ngũ khi vừa tròn mười tám tuổi. Sau thời gian huấn luyện ở d12, tháng 2 - 1965, tôi được điều động về Đại đội 1, Trung đoàn 600, làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ Bác. Bốn năm ngắn ngủi so với một đời người, nhưng vô cùng quý báu của những người lính có may mắn như chúng tôi. Mỗi khi chúng tôi được tháp tùng là mỗi lần được Bác ân cần chỉ bảo; được chứng kiến một cuộc sống đời thường, giản dị mà thanh cao của vị lãnh tụ kính yêu. Chảy đầy trong ký ức của tôi là tình yêu bao la của Người với chiến sĩ, là bài học Bác dạy chúng tôi qua những việc làm dung dị…

Hồi mới về đơn vị, tôi được nghe câu chuyện, cũng là bài học sâu sắc của Đại đội trưởng Núi. Hôm ấy, sau khi đi công tác về, quà của Bác thưởng cho mỗi chiến sĩ là ba chiếc kẹo. Anh Núi thay mặt anh em Đại đội 1 lên báo cáo quân số để nhận quà. Khi trở về, anh kể lại với vẻ mặt còn bàng hoàng: “Tôi đã báo cáo không đúng quân số, nhưng Bác chỉ nhẹ nhàng bảo: Chú nói sai rồi. Chú là đại đội trưởng, phải nắm rõ quân số của đơn vị mình chứ!”. Anh Núi càng ngạc nhiên khi Bác đưa cho anh số kẹo đủ với quân số của Đại đội 1. Đó là bài học đầu tiên mà chúng tôi học ở Người về tính cẩn thận và trách nhiệm trong công việc.

Kỷ niệm khiến tôi nhớ nhất là một buổi sáng đẹp trời của năm 1967. Hôm đó, tôi được “đồng hành” cùng Bác làm cỏ và tưới cây trong vườn. Khi làm cỏ ở vườn cam, tôi thấy có hai quả đã rụng nằm dưới mặt đất. Tôi “vờ” như không biết, vẫn hì hục xới cỏ quanh hai trái cam. Lát sau, Bác tưới xong luống hoa hồng, chuyển sang vườn cam, cạnh chỗ tôi đang nhặt cỏ, trông thấy hai quả cam rụng, nhìn vệt cỏ, Bác biết tôi đã qua chỗ đó. Người đến bên tôi, ân cần bảo: “Hai quả cam rụng kia còn tươi, sao chú không nhặt đem rửa mà ăn”. Tôi ngỡ ngàng: “Dạ, thưa Bác… Cháu không dám”. Bác nói: “Chú chỉ máy móc! Bác mà không nhìn thấy, để nó hỏng đi có phải phí lắm không!”. Lời Bác dạy, tôi thấm mãi. Nếu cứ sợ sai mà làm một cách máy móc thì khó tiến bộ được.

Chiều 27 tháng chạp năm 1967, Bác đi kiểm tra thực đơn của đại đội, thấy bữa ăn đạm bạc, Bác thưởng cho mỗi chiến sĩ một con cá trong ao để cải thiện. Bắt đủ mỗi người một con, anh em chúng tôi “xúi” nhau bắt thêm ba con thật to, báo cáo với Bác là: “Chúng cháu biếu lãnh đạo trung đoàn”. Bác cười đôn hậu, nói: “Bác đã thưởng thì ai cũng như ai, không phân biệt chỉ huy và chiến sĩ”. Chúng tôi lại được một bài học đáng nhớ về tình yêu bao la của Người.

Bây giờ, mỗi khi thấy bọn trẻ nhà tôi chỉ thích bật ti-vi xem những bộ phim truyện lãng mạn. Tôi lại nhớ câu chuyện năm xưa. Tối thứ bảy hằng tuần, cứ luân phiên nhau, Bác gọi các chiến sĩ lên cùng xem phim tài liệu, phim truyện, phóng sự… Một hôm, khi chúng tôi đang xem bộ phim tài liệu về một chiến sĩ cộng sản của nước Nga, có hai đồng chí lén mở cửa trốn ra ngoài. Ánh trăng theo khe cửa lọt vào, rọi thẳng vào màn chiếu, làm lóa hình ảnh trên phim. Bác đứng lên, khẽ bảo: “Chú nào vừa ra đấy? Bác biết rồi, đa phần các chú vẫn thích xem phim có tình yêu nam nữ lãng mạn. Các thể loại này cũng rất hay, các chú nên cố gắng ngồi xem để học những điều tốt từ họ”.

Khó có thể kể hết những kỷ niệm thân thương, bài học quý báu từ bao điều rất đỗi giản dị ở Người. Câu nói của Thiếu tá Nguyễn Văn Lợi năm ấy như cho tôi lẽ sống cả cuộc đời mình. Lần đó, lúc đang xem phim, thấy anh Lợi có vẻ mặt buồn buồn. Bác gọi: “Chú Lợi! Với cương vị của chú, ở các đơn vị ngoài phải là cán bộ tiểu đoàn hoặc trung đoàn. Ở đơn vị bảo vệ Bác, chú là chính trị viên đại đội, mang quân hàm thiếu tá. Chú thấy thế nào?”. Anh Lợi đáp: “Dạ thưa Bác, cháu nguyện suốt đời theo Bác”. Sau khi Bác qua đời, anh Lợi viết lên tấm hình chụp chung với Bác dòng chữ “Nguyện suốt đời theo Bác” và giữ như vật báu gia truyền.

Vẫn có Người trong từng bước con đi

Năm 1971, ông Ban cưới cô gái cùng quê đẹp người, đẹp nết - Nguyễn Thị Dung. Đến năm 1973, ông chuyển sang công tác ở ty Thương nghiệp tỉnh Lạng Sơn. Lấy nhau với hai bàn tay trắng, không ruộng vườn, không nhà cửa, ông Ban động viên vợ: “Bố mẹ đều bị giặc Pháp bắn chết khi tôi còn bé. Cái đói, cái khổ không khuất phục được thằng bé Ban năm ấy, nay lại có thêm mình, ta không sợ gì hết!”. Rồi ông bà nộp đơn lên UBND xã Mai Pha, xin khai phá khu đất đồi Lỗ Hổ để làm nhà, chăn nuôi và trồng rừng. Bà Dung bồi hồi nhớ lại: “Năm ấy, hai vợ chồng cùng thằng cả hì hụi cuốc, rồi đào chai cả tay, có lúc tưởng phải bỏ giữa chừng. Khi đó, ông nhà tôi lại cười bảo: “Cụ Hồ chỉ có hai bàn tay trắng mà dựng cả một sơn hà đấy thôi!”.

Cố mãi, ông bà cũng khai phá được hai chục mét, dựng tạm căn nhà vách đất, mái lợp giấy dầu. Rồi cũng từ sức lực của đôi bàn tay, gia đình ông Ban đã phá dỡ thêm được 400m2 đất đồi để làm một căn nhà rộng hơn, khang trang hơn và dành diện tích còn lại để chăn nuôi.

Chia tay ông Ban trong nắng chiều chạng vạng, đọng mãi trong tôi là nét mặt rạng ngời của người cựu chiến binh khi chỉ lên 1,8 héc-ta đất đồi, trồng gần 3.000 cây hồi, thông và bạch đàn sắp đến kỳ thu hoạch. Câu nói của ông còn văng vẳng bên tôi trên chuyến xe chiều trở về Hà Nội: “Tôi không bao giờ quên lời căn dặn anh em chúng tôi trước lúc Người đi xa: Phải sống sao cho có ích! Lời dạy của Người, hình ảnh của Người luôn bên tôi, thôi thúc tôi gắng sức xây đời từ những giọt mồ hôi mặn chát”.

HỒNG THẠNH