 |
Hình tượng “Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng” |
Có lần tôi tìm gặp ông Chu Văn Pù, quê ở Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, là trung úy, sĩ quan quân đội về nghỉ hưu tại khối Đinh Tiên Hoàng, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Ông Chu Văn Pù nguyên là tiểu đội trưởng thuộc trung đoàn 174, Đại đoàn 316, người trực tiếp cùng Bế Văn Đàn chiến đấu tại khu vực Mường Pồn, trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn. Ông kể lại:
“Hôm đó đơn vị tôi được cấp trên giao nhiệm vụ bằng mọi giá phải ngăn chặn và tiêu diệt quân địch tại khu vực Mường Pồn, không cho chúng rút về Tuần Giáo (Lai Châu). Tiểu đội của tôi được phân công phục kích quân địch tại khe một con suối cạn ngay dưới chân dốc Mường Pồn. Đội hình của tiểu đội gồm có các chiến sĩ: Vinh, Chiến, Thanh, Thàng, Pẩu... và Bế Văn Đàn.
Bế Văn Đàn là chiến sĩ liên lạc của đại đội, được trên bổ sung tăng cường cho tiểu đội. Anh có dáng người nhỏ nhắn, nước da trắng như con gái, đôi mắt to và sáng, trông rất thông minh. Trong khi tiểu đội chúng tôi chiếm lĩnh xong trận địa lúc trời tờ mờ sáng thì thình lình mặt đất bỗng rung chuyển dữ dội, bầu trời như bị xé ra từng mảnh bởi những loạt đại bác của địch bắn cấp tập xuống khu vực Mường Pồn và tiếng gầm rít của những chiếc máy bay “bà già” lượn trên đầu. Ngay sau loạt đạn đầu tiên của địch, trong làn khói súng, tôi thấy Bế Văn Đàn bị thương vào đầu do mảnh đạn moóc-chi-ê của kẻ thù. Máu anh chảy ra ướt đẫm cả vai áo. Tôi vội lao tới đỡ Đàn dậy, cởi phăng chiếc áo lót mình đang mặc để băng bó vết thương cho anh. Bốn chiến sĩ: Chiến, Thanh, Thàng, Pẩu cũng đã hy sinh. Lúc đó vào khoảng 7 giờ sáng.
Sau những đợt oanh kích ác liệt, đúng 8 giờ bỗng nhiên tiếng súng im bặt. Tiếp sau là tiếng la ó từ trên đỉnh dốc. Tôi quan sát thấy rõ những tên lính tây trắng, tây đen đang hò hét, xô đẩy nhau tràn xuống dốc. Hai trăm mét..., một trăm năm mươi mét..., một trăm mét, tôi nâng khẩu trung liên Vĩnh Cát lên rồi xiết cò. Đạn nổ giòn nhưng găm ngay trước mặt, chỉ cách nòng súng chừng 5 đến 7m, khói bụi tung lên mù mịt. Vì ở dưới chân dốc, tư thế bắn lại theo góc độ “tà dương” nên hoàn toàn bất lợi cho quân ta. Quân địch thì tiến xuống mỗi lúc một đông. Tôi lại cố nâng súng lên để chọn góc bắn thích hợp nhưng không nổi vì hai cánh tay cứng đờ và tê dại. Đang trong lúc loay hoay tìm kiếm địa hình, địa vật để kê súng lên cao thì Bế Văn Đàn đột nhiên lao tới, hai tay nắm chặt lấy hai càng súng giơ lên cao hướng thẳng về phía quân địch. Tôi ái ngại khi nhìn thấy vết thương trên đầu anh máu vẫn rỉ ra nhiều. Bế Văn Đàn hô lớn:
- Pù! Bắn đi còn chần chừ gì nữa, hãy tiêu diệt hết lũ giặc tây gian ác để trả thù cho Chiến, Thanh, Thàng, Pẩu...
Tiếng hô của Bế Văn Đàn như một mệnh lệnh chiến đấu vang lên từ trong trái tim. Tôi nghiến răng bóp cò. Khẩu trung liên rung lên, quân thù nhào xuống lăn lông lốc như những khúc gỗ lìa rừng. Cuộc chiến đấu giằng co quyết liệt với quân địch. 12 giờ trưa, đợt tấn công cuối cùng của địch đã bị tôi và Bế Văn Đàn bẻ gãy, xác giặc nằm chết ngổn ngang. Tôi reo to:
- Thắng rồi! Ta thắng rồi! Đàn ơi nhìn kìa, quân địch chết nhiều quá, vui quá Đàn ơi!
Tôi cúi xuống định đỡ Đàn dậy thì anh đã gục đầu, trút hơi thở cuối cùng mà hai bàn tay vẫn nắm chặt hai càng súng. Nhẹ nhàng gỡ hai bàn tay anh, tôi ôm anh vào lòng, máu từ vết thương trên đầu và hai bờ vai, nơi điểm tì của hai càng súng trung liên, vẫn đang rỉ ra nhuộm đỏ cả áo.
Kể tới đây ông Chu Văn Pù gạt hai hàng nước mắt nói với tôi như tâm sự:
“Đã mấy chục năm rồi mà cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào tưởng tượng nổi một con người nhỏ bé như Bế Văn Đàn mà lại có sức chịu đựng phi thường đến như vậy. Trong suốt thời gian 6 tiếng đồng hồ phải cắn răng chịu đựng sự đau đớn của vết thương trên đầu đã là quá sức, vậy mà suốt 4 tiếng đồng hồ tiếp theo cho đến hơi thở cuối cùng, anh ấy lấy thân mình làm giá súng để đồng đội đánh lui 5 đợt tấn công của địch cho đến khi thắng lợi hoàn toàn. Gương hy sinh oanh liệt đó của anh là biểu tượng cho ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân đội ta, đã trở thành bất tử và tỏa sáng muôn đời như một bài ca: “Bế Văn Đàn ơi! Anh vẫn còn sống mãi!”.
Bài và ảnh: VĂN HỌC