
|
Thương binh Trần Minh Thuận ( ngoài cùng bên trái), bà Vũ Thị Xuân (Thứ hai từ trái) cùng các con và cháu |
Gia đình mà tôi sắp kể dưới đây, hồi năm 2003, có 4 thành viên. Người cha – trụ cột chính trong gia đình - là thương binh nặng, mù hai mắt; 3 đứa con nhiễm chất độc da cam, bị dị tật, thiểu năng trí tuệ chỉ biết đập phá và la hét suốt ngày. Có lúc, người cha mù phải cầm chiếc rá rách cạp, lần đến từng nhà trong xóm xin cái ăn. Về nhà, ông lại một tay rờ miệng con, một tay bốc cơm bón cho từng đứa…
Mối tình thứ nhất: Dứt tình, tình chẳng dứt cho
Người thương binh mù ấy là Trần Minh Thuận ở thôn Hồng Phong, xã Đông Quang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Chúng tôi tìm về thôn Hồng Phong khi nắng chiều đã tắt. Đang lân la hỏi nhà ông Thuận thì người đồng nghiệp đi cùng chợt thốt lên: “Đây rồi!”. Trước mặt chúng tôi là một người đàn ông da trắng bệch đang cõng một đứa bé và người phụ nữ quần áo lấm lem. Đó là vợ chồng người con trai cả của ông Thuận.
Ông Thuận pha trà, thành thạo như người sáng mắt, mời chúng tôi. Nhìn ông thật khó đoán được tuổi. Khi ông bỏ chiếc kính đen lộ ra hai hốc mắt sâu hoắm, thì ông như đã ngoài chín chục tuổi. Nhưng lúc hồ hởi, cởi mở, ông cười khoe hàm răng trắng đều, những nếp nhăn cũng mờ đi… thì trông ông lại rất trẻ.
Trong ngôi nhà 3 gian cấp 4 của ông Thuận tuy đơn sơ, không có nhiều đồ đạc nhưng chúng tôi thấy được sự sạch sẽ, gọn gàng và cảm nhận cả được sự ấm cúng. Chính giữa nhà là chiếc bàn thờ nhỏ, có di ảnh người vợ đầu của ông Thuận. Lúc nào trên bàn thờ cũng có hoa tươi và những chân nhang mới.
Năm 1965, ông Thuận viết đơn tình nguyện vào đội thanh niên xung phong đi mở đường ở Tuyên Quang. Trước khi lên đường, gia đình ông Thuận đã tổ chức lễ dạm ngõ với cô thiếu nữ Vũ Thị Rần. Nhà Rần cách nhà ông “cái giậu mùng tơi”. Thế rồi, chiến tranh ngày càng ác liệt, từ Tuyên Quang ông Thuận viết đơn nhập ngũ. Tháng 12 - 1969 ông được điều về đơn vị trinh sát c7-d25-Đoàn 559, tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Trung. Năm 1971, trong một lần đi trinh sát ở huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, tổ trinh sát vấp phải mìn của địch. Mìn nổ, ông Thuận ngất đi. Một tuần sau tỉnh dậy, chỉ thấy xung quanh tối om, sờ lên đầu thấy quấn băng kín mít. Mãi về sau, bác sĩ mới nói: “Anh bị nhiều mảnh mìn găm vào mặt. Dù đã cố gắng nhưng chúng tôi vẫn phải khoét bỏ đôi mắt thì mới cứu anh được”.
Trong những ngày ở Trung tâm điều dưỡng, người đầu tiên ông Thuận nghĩ tới là người con gái nơi quê nhà đang đằng đẵng chờ đợi mình. Thế rồi, ông quyết định nhờ một thương binh sáng mắt viết hộ bức thư “Anh bây giờ đã trở thành người tàn phế, mất đi hai con mắt. Đến bản thân cũng không tự lo cho mình được, thì chắc cũng không thể lo cho em hạnh phúc. Ở quê nhà, em gặp ai hợp thì hãy cưới. Đừng đợi anh nữa”. “Bức thư gửi cho người vợ chưa cưới, tôi không dám ghi địa chỉ vì sợ rằng cô ấy lại tìm đến tận trung tâm”. – Ông Thuận nói thế.
Thư gửi đi chưa tròn tuần trăng thì cô Rần tìm đến gặp ông ở Trung tâm điều dưỡng thương binh. Ngày hôm đó và nhiều ngày sau nữa, tình cảm mãnh liệt, sự chia sẻ của người phụ nữ đã chiến thắng lòng tự ti của ông Thuận.
Được sự giúp đỡ của đơn vị, địa phương, năm 1973 anh chị đã tổ chức lễ cưới.
Thời gian chờ đón đứa con đầu chào đời là những ngày hạnh phúc nhất của đôi vợ chồng trẻ. Ngày vợ vẫn đi làm ở hợp tác xã, ông Thuận mày mò tẽ những sợi gai để đan võng cho 2 mẹ con. Hôm được tin vợ đến trạm xá sinh con, ông lần đường, đến nơi. Từ xa đã nghe tiếng khóc ngất của người vợ, bà đỡ nói lại với ông biết: “Đứa con bị dị tật, da trắng bệch, tóc vàng, mình mẩy mọc đầy lông lá, hai mắt lồi ra, xanh lè, mũi lại đỏ hoe, dị dạng... Chưa kịp đặt tên, thì cháu qua đời”.
Nỗi buồn chưa kịp lắng thì chị có thai tiếp lần thứ hai. Trái với tất cả những gì hy vọng, cháu trai vừa sinh cũng lại tóc vàng, da trắng, mắt xanh, lông lá khắp mình và luôn đau ốm… Anh chị đặt tên cháu là Trần Văn Tộ.
Và hy vọng tiếp nối những thất vọng sau những lần vượt cạn.
Rồi hy vọng tưởng được đền đáp khi năm 1983, chị sinh một cháu gái có hình hài như bao đứa trẻ bình thường khác. Anh chị đặt tên là Trần Thị Hoa. Thế nhưng, oái oăm thay, càng lớn Hoa càng la hét, khóc, cười và thỉnh thoảng lại lăn đùng, ngã ngửa, sùi bọt mép bởi chứng động kinh!...
Cảm nhận được những khó khăn mà người vợ đang phải trải qua, ông Thuận ngậm ngùi: “
Tôi không nhìn được, nhưng tôi cảm nhận được những tiếng động “tình cảm” đang diễn ra quanh mình. Từ cái nén khóc của vợ tôi, tiếng ú ớ của những đứa con trai, tiếng cười không mang hồn của đứa con gái, lời động viên của vợ tôi… Để chia sẻ nỗi đau cùng với người vợ, người yêu của tôi, từ sinh hoạt hằng ngày, trông con hay nấu một bữa cơm nhạt, tôi cố gắng không để cô ấy phải lo lắng”.
Nỗi đau vẫn chưa dừng lại, đúng lúc gia cảnh khó khăn, túng quẫn nhất vì bao nhiêu tiền đã đổ vào để chạy chữa cho các con thì chị Rần bị ung thư đã bước vào giai đoạn cuối...
Một người khách chợt đến, thay ông Thuận thắp nén hương cho cô Rần. Khách là thầy giáo Hà Duy Thức, Hiệu trưởng trường THCS Đông Quang. Ông bảo: “Hiếm có người phụ nữ nào như cô Rần. Tình cảm, tình yêu, sự chăm sóc đối với gia đình không chỉ là trách nhiệm của một người vợ mà còn là một người phụ nữ nông thôn với thương binh, là người phụ nữ với gia đình chính sách... Cho đến lúc cô ấy lâm bệnh, biết không thể qua khỏi. Vậy mà cô ấy vẫn lo không có ai chăm sóc cho mấy bố con”.
Chuyện 3 người phụ nữ làm dâu
Cách đây 5 năm, đúng vào lúc chị Rần cận kề cái chết, chị Vũ Thị Xuân (em gái chị Rần) khi đó đang sống ở Điện Biên đã có trong tay 0,5ha cà phê bắt đầu đến kỳ thu hoạch. Khi thấy chị gọi người bán vườn cà phê với giá rẻ gần như cho không để về Thái Bình lấy chồng, ai cũng nghĩ, nhà chồng tương lai chắc phải khá giả và chiều chị lắm, thì chị Xuân-một người phụ nữ đảm đam mê trồng rừng – mới bỏ rừng “một mực theo về” như thế…
Chẳng ai biết được, từ năm 2003, Xuân bỗng thấy chị gái rất nhiều lần gọi điện gợi ý chị về quê. Chị Xuân kể lại: “Sau mỗi cuộc trò chuyện, chị Rần đều bảo tôi chuyển hẳn về quê ở với chị. Chị luôn bảo với tôi rằng: “Ở trên đó chỉ có hai mẹ con chi bằng em về đây, có họ hàng, có chị có em”. Chồng tôi không may mất sớm. Khi đó tôi vẫn chưa biết chị đang ốm nặng nằm ở bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Mãi đến khi có bác sĩ gọi điện bảo: “Chị Rần sắp mất”, tôi mới biết chị bị bệnh nặng”.
Chị Xuân nghẹn ngào: “Khi tôi tới bệnh viện, bác sĩ bảo hai tuần nay chị Rần đã không còn ăn được gì, người khác thì đã đi lâu rồi, thế mà... Gặp được tôi, chị nói: “Thay chị chăm sóc cho anh và các cháu. Chị không sống được, tội cho anh và cháu quá!...”. Sau đám tang chị, thấy căn nhà của anh chị dột nát, cảnh anh rể mù lòa đang trông hai đứa con tật nguyền, lòng tôi nghẹn lại. Rồi lại nghĩ tới lời trăng trối... và tôi quyết thay chị chăm sóc mái ấm không trọn vẹn này.
Từ khi có bàn tay của chị Xuân, mái nhà như được sưởi ấm thêm. Và rất lạ, cháu Hoa đã biết thương dì Xuân; hơn cả là cháu Tộ đã lập gia đình.
Vợ Tộ là chị Vũ Thị Tâm và đó lại là câu chuyện thứ hai của người cùng làng.
Gần nhà, thấy cô Xuân lam làm suốt ngày, Tâm thường xuyên sang thăm hỏi và đỡ đần thêm cho cô. Và không biết tự lúc nào, Tâm đã trở thành người thân thiết với gia đình ấy. Rồi Tâm đã đi tới một quyết định xin làm vợ người con cả tật nguyền - anh Trần Văn Tộ, khiến không ít người ngỡ ngàng.
Tâm bảo: “Anh ấy bị di chứng da cam, trí tuệ không tinh thông được như bao người khác. Nhưng em biết, anh ấy cũng khát khao hạnh phúc gia đình như bao người khác. Em quyết định lấy anh Tộ. Bố mẹ, gia đình, làng xóm phản đối. Kệ. Em im lặng, nhưng không thay đổi quyết định của mình”.
Tâm đã dẫn Tộ ra xã để đăng ký kết hôn. Không mặc váy cưới, không cỗ bàn, không xe hoa…, Tâm đã về nhà chồng như nỗi niềm mà Tâm cảm nhận được từ gia cảnh ấy.
Một năm sau khi có cô con dâu cả, ông Thuận lại đón thêm người phụ nữ thứ hai cũng “tình nguyện” về làm dâu là cô Nguyễn Thị Nghĩa về làm vợ người con trai thứ hai Trần Văn Tiện. Đó cũng là câu chuyện thứ ba. Chẳng có tiền để làm mâm cỗ mời hàng xóm, nhưng ai cũng đến mừng cho gia đình ông. Cô Nghĩa đảm đang lại khéo tay, mở một hiệu may nhỏ, cùng chồng ra ở riêng.
Ba người phụ nữ “tình nguyện” về làm dâu nhà ông Thuận, ai cũng tần tảo nhưng họ chung một nỗi niềm, một lòng chăm sóc cho những người khuyết tật với tình yêu thương chân thành. Giờ đây Tâm đã sinh được một cháu trai trông thật khôi ngô. Chị tâm sự: “Hằng ngày em đi làm đồng, anh ấy thì ở nhà nấu cơm và đến giờ lại đến nhà trẻ đón con. Hiền lành và thương vợ, yêu con lắm. Thế là em hạnh phúc rồi”.
Mỗi buổi chiều, khi nắng còn le lói, người thương binh mù có thể thanh thản kê chiếc ghế ra ngồi phía đầu hè để thổi một điệu sáo trúc. Qua tiếng sáo vi vu, khi bổng, khi trầm, người nghe cảm nhận được lòng người thương binh già này có phần thanh thản hơn… Sao không ơn trời đất, sao không thanh thản cho được khi có tới ba người phụ nữ lành lặn, nết na vì ông, vì các con ông mà tự nguyện đến sẻ chia, tự nguyện đến “gánh” bớt gánh nặng cuộc đời.
Bài và ảnh: TRỊNH PHÚ SƠN – LÊ HỒNG VÂN