QĐND - Nguyễn Bá Tòng lao ra khỏi xe, chạy chưa đầy 15m thì một tiếng nổ kinh hoàng vang lên. Ông bị áp lực của khối bộc phá đẩy ngã xuống ta-luy âm ngất đi, còn chiếc xe bị hất rơi xuống vực. Đường đã thông, cả đoàn xe lao lên phía trước, hướng về phía Bản Đông. Hành động dũng cảm, mưu trí trên đỉnh U Bò hôm ấy cùng với những chiến công sau này, ông đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân vào tháng 11-1973.

Thiếu tướng Nguyễn Bá Tòng sinh năm 1946, quê gốc ở Hà Nam. Năm 19 tuổi, ông nhập ngũ, được biên chế vào Đại đội Pháo cao xạ 100 (Quân khu Việt Bắc) bảo vệ các mục tiêu ở Lạng Sơn, Thái Nguyên và Việt Trì. Năm 1969, đơn vị của ông được lệnh hành quân bổ sung cho Trung đoàn Công binh 98, Đoàn 559. Ông được biên chế về Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 98, trực thuộc Binh trạm 42, có nhiệm vụ mở đường cơ giới, sửa chữa đường và phá bom, mìn trên các tuyến trọng điểm từ Đường 9, đoạn U Bò đến dốc Thơm, dốc Tà Khống, ngã ba sông Sê Băng Hiêng.

Thiếu tướng Nguyễn Bá Tòng thăm Di tích địa đạo Sở chỉ huy Bộ tư lệnh Trường Sơn những năm 1967-1969 ở Na Bo, Sê Pôn, Sa-vẳn-na-khệt, Lào. Ảnh do nhân vật cung cấp.

Nhớ về những ngày ấy, ông kể: Con đường Trường Sơn những năm chống Mỹ vô cùng gian khổ, ác liệt. Nơi đây, đế quốc Mỹ đã huy động và thử nghiệm các loại vũ khí tối tân, hiện đại nhất, trút xuống đây hơn 5 triệu tấn bom, mìn, chất độc da cam/đi-ô-xin nhằm hủy diệt, ngăn chặn tuyến đường vận tải chiến lược của ta. Ở Trường Sơn, mùa mưa kéo dài 6 tháng trời, quần áo mặc trên người lúc nào cũng ẩm ướt. Mùa khô thì nắng như thiêu như đốt. Thời tiết khắc nghiệt, ăn uống thiếu thốn, có những tháng bộ đội mỗi ngày chỉ được một lạng gạo, thiếu muối, bị phù thũng, sốt rét hành hạ.

Đầu năm 1971, Mỹ - ngụy mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 nhằm đánh phá hành lang chi viện chiến lược của ta bằng không quân. Tháng 3-1971, bộ đội Trường Sơn tham gia chiến dịch bước vào đợt tổng công kích thứ hai. Binh trạm 27 nhận lệnh tổ chức 150 xe của Tiểu đoàn 62 và Tiểu đoàn 965 chia làm 3 thê đội chở đạn pháo, thuốc men và lương thực tiếp tế cho các hướng chiến dịch. Đơn vị của Nguyễn Bá Tòng đang chốt giữ bảo đảm giao thông tại dốc U Bò, trên Đường 16. Vào lúc 2 giờ sáng 12-3, đoàn xe bắt đầu xuất phát. Khi chiếc xe đi đầu vượt dốc thì bất ngờ máy bay địch thả pháo sáng, đuổi theo đội hình xe, rải thảm bom bi và bắn đạn 20mm liên hồi. Chiếc xe đi đầu trúng đạn, bốc cháy, lái xe bị thương nhưng thoát được ra ngoài. Tổ công binh của Đại đội 6 của Nguyễn Bá Tòng trực trên đỉnh dốc vội lao ra dập lửa, cứu chữa thương binh, nhưng cả 4 chiến sĩ đều trúng đạn, bị thương. Đoạn dốc này quá hẹp, một bên là vách núi, một bên là vực sâu, hơn 20 chiếc xe đi sau không thể vượt lên, cả đoàn xe dồn lại. Tình huống vô cùng khẩn cấp. Lúc này, Tiểu đội trưởng Nguyễn Bá Tòng đang trực ở dưới chân dốc, được lệnh mang bộc phá lên để thông đường gấp. Ông mang chiếc ba lô đựng 20kg thuốc nổ, lao lên đỉnh dốc. Trên đầu, máy bay địch vẫn điên cuồng oanh tạc. Lên đến nơi, Nguyễn Bá Tòng nhanh chóng tiếp cận chiếc xe khi ngọn lửa đã gần trùm kín thành xe, trên thùng xe chở đầy đạn cối và gạo. Nguyễn Bá Tòng nghĩ, nếu cắt dây cháy chậm dài thì bảo đảm an toàn cho mình nhưng nếu chiếc xe cùng cả tấn đạn cối trên xe nổ tại chỗ thì mặt đường cũng sẽ bị hủy hoại, không thể thông đường. Lập tức, Nguyễn Bá Tòng nhanh chóng xác định vị trí đặt bộc phá, cắt dây cháy chậm chỉ chừng một gang rồi ôm khối bộc phá lao vào đặt ở cầu sau chiếc xe. Nguyễn Bá Tòng chạy chưa đầy 15m thì một tiếng nổ kinh hoàng vang lên. Ông bị áp lực của khối bộc phá đẩy ngã xuống ta-luy âm ngất đi, còn chiếc xe bị hất rơi xuống vực. Đường đã thông, cả đoàn xe lao lên phía trước, hướng về phía Bản Đông.

Nguyễn Bá Tòng được đưa về bệnh xá của trung đoàn đến ngày hôm sau mới tỉnh. Hành động dũng cảm, mưu trí ấy cùng với những chiến công sau này, ông đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân vào tháng 11-1973.

Đất nước thống nhất, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Bá Tòng về học tại Học viện Chính trị-Quân sự đến năm 1976 thì quay trở lại Trung đoàn 98, làm nhiệm vụ ở biên giới tỉnh Lạng Sơn. Năm 1983, ông về công tác tại Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn (Binh đoàn 12), phát triển lên cương vị Bí thư Đảng ủy, Phó tư lệnh về chính trị Binh đoàn cho đến năm 2007 thì nghỉ hưu với quân hàm Thiếu tướng. Trở về cuộc sống bình dị, hạnh phúc bên gia đình nhưng trong lòng ông vẫn không nguôi nỗi nhớ về Trường Sơn, về những năm tháng cùng đồng đội chiến đấu gian khổ, hào hùng đã rèn luyện nên bản lĩnh, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong ông.

VÂN HƯƠNG