QĐND- “Cứ vào những ngày lễ, Tết hay có đoàn đến viếng nghĩa trang là vợ chồng tôi lại dậy từ nửa đêm để quét dọn, lau chùi, chuẩn bị hương, hoa, bày ban thờ tế lễ… Vất vả nhưng thấy trong lòng vui lắm, bởi vẫn còn nhiều người nhớ tới công lao của các liệt sĩ quên mình vì nước”. Đó là tâm sự của ông Nguyễn Văn Dũng, quản trang tại Nghĩa trang Liệt sĩ Long Thành (Đồng Nai). Gần 30 năm qua, vợ chồng ông ngày ngày “làm bạn” với hơn 2 nghìn liệt sĩ yên nghỉ nơi đây. Ông bảo: “Đó là “cái duyên” không phải ai muốn cũng làm được”.
Bén duyên từ lúc tóc xanh
Tìm gặp ông ở nhà thật khó! Hỏi thăm người hàng xóm của ông tôi mới biết, vợ chồng ông đã chuyển hẳn ra ở nghĩa trang, thi thoảng mới ghé về nhà chốc lát rồi lại vội vã đi ngay. Trò chuyện với tôi, ông cũng ngồi ngay bên những ngôi mộ liệt sĩ, vừa nhặt cỏ, vừa lau chùi mấy tấm bia. Ông Dũng sinh năm 1960. 18 tuổi ông thành gia thất. Vợ ông, bà Phạm Thị Em, kém ông một tuổi, là con của liệt sĩ Phạm Văn Khế hy sinh trong trận chống càn tại ngã ba Giồng Sắn năm 1964. Mấy chục năm qua, gia đình ông vẫn chưa tìm thấy mộ phần của liệt sĩ Khế. Ông Dũng kể: “Sau ngày cưới, vợ tôi có ý định đi tìm mộ cha nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu. Những thông tin về trận càn năm xưa hầu như chẳng ai còn nhớ. Họ chỉ biết rằng, bố vợ tôi hy sinh ngay lúc trận chiến đấu diễn ra ác liệt. Khi bọn địch tràn qua, đồng đội của ông quay lại tìm nhưng không thấy xác. Thương vợ, thương mẹ già, tôi quyết định đi khắp nơi trong tỉnh để tìm, hỏi thông tin. Gần 2 năm trời, tôi đã có mặt ở hầu hết các nghĩa trang lớn, nhỏ, đến từng nhà, gặp từng người mỗi khi có chút hy vọng mong manh.
Đầu năm 1984, tôi tới huyện Long Thành để hỏi thăm tin tức. Lại một lần nữa, chẳng ai biết liệt sĩ Khế được chôn cất ở đâu. Khi xuống nghĩa trang của huyện, nhìn những ngôi mộ cũ kỹ, cỏ mọc ngút ngàn, lá cây xếp dày thành lớp, hoang vu, lạnh lẽo, tôi bỗng thấy chạnh lòng. Hỏi ra mới biết, mấy đời quản trang không ở được đã bỏ đi hết, nên hiện tại nghĩa trang không có người trông nom, chăm sóc. Không hiểu sao, từ lúc đó tôi cứ bị ám ảnh bởi những ngôi mộ liệt sĩ hoang vu. Về nhà bàn với vợ, hôm sau tôi trở lại Long Thành nhận làm quản trang. Khi ấy tôi chưa tròn 24 tuổi”.
 |
Vợ chồng ông Dũng, bà Em ngày ngày chăm sóc các phần mộ liệt sĩ.
|
Ông Dũng đứng dậy thắp mấy nén nhang trên những ngôi mộ liệt sĩ chưa biết tên. Bà Em, vợ ông, cũng loay hoay nhặt cỏ, quét dọn xung quanh. 28 năm qua, vợ chồng ông tự nguyện ngày ngày hương hoa, canh giấc ngủ ngàn thu cho những anh hùng, liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc. Bà Em bảo: “Người ta thì e ngại, kiêng khem, chẳng hiểu sao vợ chồng tôi không nỡ xa cái nghĩa trang này. Có lẽ hương hồn các liệt sĩ níu kéo chúng tôi không dứt ra được. Đi một ngày là nhớ một ngày”. Câu nói của bà làm tôi xúc động. Dường như với vợ chồng người quản trang này, những ngôi mộ liệt sĩ đã trở thành những người bạn, có tình cảm thân thương, gắn bó.
Góp một chút sức mình vì nghĩa
Vợ chồng ông Dũng quê ở Nhơn Trạch (Đồng Nai), cách Nghĩa trang Liệt sĩ Long Thành chừng 25km. Cái ngày mà ông Dũng nhận làm quản trang cũng nhiều người xì xào, dị nghị. Họ bảo, hơn 20 tuổi đầu kiếm đâu chẳng đủ sống mà lại “sống nhờ” vào... nghĩa trang! Nhưng cũng có nhiều người đồng tình, động viên ông cố gắng. Ông Dũng nhớ lại: “Ngày ấy nghĩa trang này heo hút lắm, xa khu dân cư, ban đêm xa tít mới thấy leo lét một ánh đèn, không có điện, không có nước sinh hoạt, đường vào chỉ đủ cho một người đi xe đạp. Ở được ít ngày tôi cũng thấy lạnh lẽo, nản lòng. Nhưng rồi, mỗi lần ra quét dọn, thắp nhang cho những ngôi mộ tôi lại có cảm giác thân quen, gần gũi và lại tự nhủ mình phải có trách nhiệm với những người đã nằm xuống cho sự sống hôm nay”. Có lẽ, chính nhờ suy nghĩ ấy mà ông Dũng đã trụ được ở đây suốt mấy chục năm trời. Thời gian đầu, chỉ riêng việc nhớ tên và vị trí 2.045 ngôi mộ đã đủ làm ông đau đầu, nhức óc. Để tiện quản lý, ông bỏ thời gian nhiều đêm chép lại tên liệt sĩ và trích ngang theo vần A, B, C rồi ép nhựa cho tiện lưu giữ, hướng dẫn thân nhân liệt sĩ đến thắp nhang. Ấy là ngày trước, còn bây giờ ông đã thuộc làu từng tên, từng vị trí, không sai chút nào.
Dẫn tôi tới vườn cây sum suê bóng mát, ông Dũng tâm sự: “Trước kia khu này trống trơn, nắng bạc đất. Bà con đi viếng mộ phải ngồi ngoài nắng chang chang. Nhìn họ tội nghiệp quá nên tôi đi mua cây về trồng lấy bóng mát. Sau đó, chính quyền địa phương mới đầu tư trồng nhiều vườn cây xung quanh giao cho tôi chăm sóc. Công việc quét dọn lại càng nhiều hơn, tôi phải đưa cả bà xã ra đây phụ giúp”. Quả thực, khuôn viên Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Long Thành rộng 6ha với hệ thống cây cảnh, cây xanh phủ khắp. Vào mùa rụng lá, vừa quét một vòng, quay lại đã thấy lá rơi. Vậy mà đã từ nhiều năm nay, khách thập phương đến viếng mộ không khỏi ngợi khen cảnh quan, khuôn viên nghĩa trang luôn sạch đẹp, thiêng liêng mà ấm cúng nghĩa tình. Đúng như lời nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu nhận xét: “Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Long Thành thuộc hàng đẹp nhất trong cả nước”. Cái “đẹp” mà nguyên Tổng bí thư nói không chỉ ở cảnh quan, bài trí mà còn ở cái tình của vợ chồng người quản trang dành cho liệt sĩ và thân nhân họ. Mấy chục năm gắn bó với nghĩa trang là mấy chục năm vợ chồng ông ngày 3 bữa dâng cơm thờ cúng hương hồn các liệt sĩ như chính người thân của mình. Đơn giản chỉ là “cất nóng, ăn nguội” nhưng mấy ai đều đặn hằng ngày làm được như thế nếu không có “cái tâm” thành kính? Và nếu không có “cái tâm” thì vợ chồng ông đã không bỏ cả nhà cửa để ra ở ngay tại nghĩa trang cho tiện chăm lo công việc. Rồi còn tự bỏ tiền túi ra mua hoa mười giờ về trồng trên phần mộ của hơn 2 nghìn liệt sĩ với tâm niệm để các anh an giấc ngàn thu. Và, còn điều này nữa, nếu không có “cái tâm”, chắc chắn họ đã không “trụ” nổi với số tiền trợ cấp quá ít ỏi, phải tằn tiện lắm mới đủ chi tiêu đạm bạc suốt mấy chục năm trời. Họ làm việc vì lương tâm, vì nghĩa.
Đang trò chuyện cùng tôi dưới bóng những hàng cây, bỗng tiếng bà Em lảnh lót: “Ông ơi, có mấy người ở tận Quảng Bình vào hỏi thăm thông tin về liệt sĩ. Ông vào xem có giúp họ được gì không?”. Chưa nghe dứt lời, ông Dũng đã tất tả bước nhanh. Bà Em bộc bạch: “Tội lắm anh ạ, nhiều người cất công từ ngoài Bắc vô đây chỉ mong tìm được thân nhân của họ. Tôi thì chưa nhớ hết nhưng ông nhà tôi thì chỉ cần nghe đọc họ tên, quê quán là đã biết ở đây có liệt sĩ đó hay không? Có thì ông ấy chỉ dẫn tận nơi, không có thì liên hệ các nghĩa trang khác tìm kiếm giúp. Bởi thế, chẳng lúc nào vợ chồng tôi rời xa nghĩa trang này được vì cứ lo hễ có ai tới hỏi thăm, mình lại đi vắng thì tội nghiệp người ta. Thân nhân của họ cũng như thân nhân của mình vậy”. Nghĩa cử của ông bà đã để lại tình cảm sâu đậm cho bao gia đình liệt sĩ trên mọi miền Tổ quốc, góp phần làm dịu đi nỗi đau mất mát do chiến tranh.
Mai này ai nhớ, ai quên?
“Mỗi lần có đoàn đến viếng các liệt sĩ, tôi lại tranh thủ kể cho họ nghe về một trận đánh nào đó mà tôi sưu tầm được, những mong hun đúc ngọn lửa cách mạng, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc cho thế hệ hôm nay” - ông Dũng nói như giãi bày. “Bằng cách nào ông sưu tầm được những trận đánh đó?” - Tôi ngạc nhiên hỏi. Ông Dũng cười, nụ cười hiền khô: “Nhờ thằng con trai tôi đấy! Nó vào mạng đọc cho tôi nghe. Vài lần là nhớ liền à. Mà chẳng hiểu sao bố con tôi lại “nghiền” mấy thứ ấy thế. Đọc hoài, nghe hoài đến thuộc rồi mà vẫn muốn nghe nữa”. Lạ thật! Trong khi lớp trẻ ngày nay có nhiều "nam thanh nữ tú" dường như chẳng để tâm tới lịch sử truyền thống, không thích những câu chuyện chiến đấu của cha anh thì cha con ông lại say mê “sưu tầm quá khứ” và còn kể cho khách viếng liệt sĩ bằng cả tấm lòng biết ơn, thành kính. Ông Dũng tâm sự: “Cũng có không ít người lắng nghe, xúc động trào nước mắt, nhưng cũng có những cháu nhỏ nghe một cách dửng dưng. Thấy thế, trong lòng tôi lại chạnh buồn. Chẳng biết mai này ai nhớ, ai quên?”. Câu hỏi của ông như xoáy vào lòng tôi, bởi câu trả lời mông lung quá! Nó là trách nhiệm từ lương tâm của tất cả chúng ta, không riêng ai hết, là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” mà thế hệ hôm nay và mai sau cần luôn ghi nhớ. Nhưng có một điều mà tôi dám cả quyết chia sẻ với ông ngay lúc đó, rằng lớp trẻ hôm nay vẫn luôn trân trọng, biết ơn và đời đời ghi nhớ công lao các anh hùng liệt sĩ đã vĩnh viễn nằm trong lòng Đất Mẹ ở tuổi hai mươi để giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc. Họ mãi trường tồn cùng dân tộc, không một ai được phép lãng quên.
Bài và ảnh: Hoàng Thành