Thời chống Mỹ, trong lực lượng Công an nhân dân vũ trang, tên tuổi của ông được lan truyền với danh hiệu “kiện tướng truy lùng biệt kích”. Ông có vinh dự là một trong các cận vệ của Bác Hồ, tháp tùng Người trong nhiều chuyến công tác, trong đó có hai lần Bác về thăm quê. Đặc biệt, ông còn là tác giả của kế hoạch tuyệt mật K100 bảo vệ tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
 |
Thượng tá Đỗ Bơn.
|
Nhà Thượng tá Đỗ Bơn nằm khiêm nhường trong một ngõ nhỏ ở khu dân cư Hòa Bình 4, phố Minh Khai, Hà Nội. Ông năm nay đã 88 tuổi, tai nghe rất khó khăn nên tôi phải dùng bút viết ra giấy để trao đổi. Bằng cách “bút đàm” ấy, câu chuyện về kế hoạch K100 của 40 năm về trước tái hiện qua lời kể xúc động của người lính già…
Bí ẩn K100
Năm 1969, sức khỏe của Bác Hồ cứ mỗi ngày một suy giảm. Việc bảo vệ sức khỏe và chuẩn bị các phương án tang lễ, giữ gìn thi hài Bác lâu dài trở thành nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân. Một ngày đầu tháng 5-1969, Thiếu tá Đỗ Bơn, lúc ấy là Trung đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Trung đoàn Công an nhân dân vũ trang bảo vệ Thủ đô được Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang Phạm Kiệt triệu tập gấp. Đến cổng Bộ Tư lệnh, ông được Phó cục trưởng Cục Tham mưu Lê Công Ngoạn và Trưởng phòng bảo vệ nội địa Xuân Phong đón và đưa ngay lên phòng làm việc của Tư lệnh. Tại đây, Đỗ Bơn được lệnh soạn thảo ngay một phương án bảo vệ quy mô lớn, lớn nhất so với các phương án bảo vệ trên toàn quốc từ trước đến nay. Khi ông hỏi về đối tượng bảo vệ, thời gian triển khai, đồng chí Tư lệnh chỉ thị: “Do đây là một sự kiện quan trọng đặc biệt, xảy ra trong hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh nên phải giữ bí mật tuyệt đối. Cấp trên lệnh cho đồng chí hoàn thành gấp kế hoạch”. Đồng chí Phạm Kiệt còn nhắc nhở: Trong thời gian sớm nhất, Thiếu tá Đỗ Bơn phải dự thảo xong kế hoạch trình lãnh đạo Bộ Tư lệnh. Sau khi được phê duyệt, kế hoạch này sẽ được đưa vào tủ bảo mật, gắn xi niêm phong, bảo quản như một bí mật quốc gia.
Kế hoạch bảo vệ lớn chưa từng có này được đặt mật danh K100.
Là một cán bộ tác chiến đã từng thảo nhiều kế hoạch bảo vệ những ngày lễ lớn ở Thủ đô Hà Nội, đây là lần đầu tiên Thiếu tá Đỗ Bơn nhận một kế hoạch hoàn toàn bí mật về đối tượng và thời gian bảo vệ. Ông buộc phải xét đoán, suy nghĩ. Sau khi loại trừ mọi khả năng có thể xảy ra, ông cho rằng, rất có thể đây là kế hoạch chuẩn bị cho lễ mừng miền Nam giải phóng sẽ xảy ra trong nay mai. Nhưng tại sao lại là K100? Cái bí số bí hiểm này nói lên điều gì? Còn nhiều câu hỏi rối tung trong đầu, nhưng cuối cùng, Đỗ Bơn vẫn tự nhủ với chính mình, đây phải là một kế hoạch bảo vệ một sự kiện mang tính lịch sử. Ở thời điểm này, chỉ có giải phóng miền Nam mới xứng tầm như thế. Điều đó có nghĩa là ngày thống nhất đất nước đang đến rất gần. Ông lên xe đạp trở về nhà mà không sao đi nổi vì quá xúc động.
Ngay ngày hôm sau, công việc soạn thảo kế hoạch K100 bắt đầu được thực hiện. Tấm bản đồ Hà Nội cỡ lớn bày ra trước mặt. Đường ngang, ngõ dọc, sông hồ, nhà cửa, các khu trung tâm, cụm công trình, nhà dân rồi vùng ngoại ô, các tuyến giao thông cứ chằng chịt, đan chéo vào nhau. Thiếu tá Đỗ Bơn dùng chì đỏ đánh dấu những trọng điểm. Vừa nhận định, vừa phán đoán, vừa viết bản kế hoạch K100 rồi dán các ký hiệu lên tấm bản đồ. Các ký hiệu tác chiến cứ dần xuất hiện mỗi lúc một nhiều thể hiện đường hành quân, các vị trí đóng quân, các điểm tuần tra, canh gác, nơi bố trí chỉ huy sở của các cấp thành từng tuyến liên hoàn chặt chẽ.
Sau mười ngày đêm miệt mài làm việc, K100 đã được Thiếu tá Đỗ Bơn dự thảo xong. Đúng ngày giờ quy định, K100 được trình lên Tư lệnh Phạm Kiệt và được duyệt ngay sau khi sửa đổi một vài chi tiết. Kế hoạch này được giữ tại phòng bảo mật sẵn sàng chờ lệnh triển khai.
Khi K100 còn đang nằm trong két sắt, Thiếu tá Đỗ Bơn tiếp tục được lệnh tổ chức tập luyện phương án tác chiến đã thể hiện trong kế hoạch. Để giữ bí mật, việc tập luyện chỉ triển khai ở phạm vi điều quân chiếm lĩnh vị trí, bảo vệ mục tiêu, xử lý các tình huống giả định có thể xảy ra. Lực lượng huy động khoảng gần 2 nghìn cán bộ, chiến sĩ gồm 4 đại đội của Tiểu đoàn 12 cơ động và 9 đại đội của Trung đoàn 254 Công an nhân dân vũ trang bảo vệ Thủ đô. Ngoài ra, theo yêu cầu của Thiếu tá Đỗ Bơn, lực lượng của một số địa phương giáp Hà Nội sẽ làm dự bị, sẵn sàng được huy động khi cần.
“Giải mã” K100
Thời gian như chậm lại. Một tháng, hai tháng rồi ba tháng, cấp trên chỉ thị Thiếu tá Đỗ Bơn phải chú ý đến kế hoạch K100, song việc triển khai thực hiện nó chưa hề
được nhắc đến. Mùa hè trôi qua, mùa thu trở lại, ở khắp các mặt trận, tin chiến thắng dồn dập báo về. Rồi một hôm, đồng chí Xuân Phong-Trưởng phòng Bảo vệ nội địa của Bộ Tư lệnh triệu tập đột xuất Đỗ Bơn lên làm việc. Ông chính thức được thông báo: Bác Hồ đang yếu mệt. K100 là kế hoạch bảo vệ tang lễ của Người. Lòng Đỗ Bơn như thắt lại, nước mắt trào ra. Ước mong lớn nhất của ông lúc đó là mong Bác khỏe lại để K100 không phải triển khai, thực hiện nữa. Tuy nhiên, cấp trên đã chỉ thị cho ông phải thực hiện mọi mệnh lệnh để triển khai K100, không được phép để xảy ra sơ suất nào, dù là nhỏ nhất. Ông hiểu rằng, trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh thì việc đảm bảo an ninh trật tự trong tang lễ của Bác có ý nghĩa vô cùng hệ trọng.
Từ hôm đó, Thiếu tá Đỗ Bơn cảm thấy thời gian trôi đi rất nhanh, lòng lúc nào cũng như có lửa đốt. Và ngày 3-9-1969 là một ngày không thể nào quên đối với cả cuộc đời của ông. “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ trần...”- Đài Tiếng nói Việt Nam chầm chậm báo tin với toàn thể quân dân ta cùng bạn bè khắp năm châu. Ngồi ở phòng làm việc, Đỗ Bơn bàng hoàng, lặng lẽ khóc một mình. Đúng lúc đó, điện thoại nội bộ reo gấp gáp. Cấp trên ra lệnh: “K100 triển khai làm nhiệm vụ bảo vệ tang lễ Bác Hồ...”. Gạt nước mắt, qua hệ thống thông tin liên lạc, ông hạ lệnh đến từng đầu mối đã được quy định trong K100: “Thực hiện kế hoạch K100-các đơn vị tiến về vị trí”. Từ các vị trí tập kết, những người lính Công an nhân dân vũ trang tiến đến quảng trường Ba Đình, nhà khách Chính phủ, các cơ quan đầu não của Đảng và Nhà nước, trụ sở cơ quan ngoại giao, các phái đoàn quốc tế, sân bay Gia Lâm và các mục tiêu quan trọng khác... Các đội tuần tra, cơ động, danh dự, tiêu binh, mô tô hộ tống, phòng không tăng cường, thông tin liên lạc, quân y... quân phục chỉnh tề, ngực đeo băng tang hành quân về các vị trí quy định phối hợp chặt chẽ với các lực lượng bộ đội, công an làm nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô, bảo vệ tang lễ Bác.
Những ngày đau thương đó, Thiếu tá Đỗ Bơn đã trực tiếp chứng kiến tình cảm sâu nặng của nhân dân ta và loài người tiến bộ dành cho vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Dòng người nối nhau tưởng chừng như vô tận trên Quảng trường Ba Đình, nước mắt hòa cùng nước mưa vào viếng Bác. Nhiều cụ già, các cháu nhỏ khóc nhiều và quá xúc động đã ngất đi. Ngay cả các đoàn ngoại giao nước ngoài tới viếng Bác, nhiều người cũng đã không cầm được nước mắt. Do đã chủ động trong chuẩn bị kế hoạch, diễn tập chu đáo nên khi triển khai, an ninh trật tự Thủ đô những ngày đó được đảm bảo an toàn tuyệt đối.
Kể đến đây, ông Đỗ Bơn rưng rưng nước mắt. Ông bảo, thời gian trôi đi thật nhanh, mới đó mà đã 40 năm Bác Hồ đi xa. Cho đến bây giờ, đã ở cái tuổi “gần đất xa trời” song trong tâm khảm, ông vẫn còn nhớ như in những giây phút làm nhiệm vụ chỉ huy bảo vệ tang lễ của Người. Những giây phút đau thương ấy, dù rất căng thẳng trong việc điều hành kế hoạch K100, nhưng đầu óc ông vẫn không nguôi nghĩ về Bác, nhớ về những lần bảo vệ Bác đi công tác ở các địa phương, đặc biệt là hai lần bảo vệ Bác về thăm quê.
Bài và ảnh: TRẦN HOÀNG-THÁI BÌNH