Tết Trung thu đến, “Thùng thình, thùng thình cắc, thùng thình…” tiếng trống đệm cho đoàn múa sư tử vang lên dưới ánh trăng rằm tháng 8 âm lịch sáng tỏ khắp nơi, thôi thúc trẻ em và cả người lớn đổ ra đường xóm làng xem đông vui nhộn nhịp.
Tết Trung thu, người lớn tổ chức các trò chơi vui vẻ có nét văn hóa lành mạnh để các trẻ em xem. Hồi 5-6 tuổi, Quý Tân cùng lũ trẻ hàng xóm đứng vòng trong vòng ngoài say sưa xem đèn kéo quân của một nhà hàng bán treo ngoài cửa nhà. Mải xem không hề biết có cáng quan đang đi tới. Mấy chú lính hầu đi trước phía cáng quát nạt dẹp đường, tay cầm roi mang vẩy ra oai, làm lũ trẻ sợ chạy tán loạn mọi nơi. Riêng Quý Tân vẫn thản nhiên đứng xem như chẳng có chuyện gì xảy ra. Tên lính hầu bực mình, giơ cao roi nhưng chưa kịp vụt vào người Quý Tân thì cáng quan vừa tới. Thấy ồn ào, quan lệnh dừng cáng, hỏi tên lính. Khi rõ câu chuyện, quan hỏi thằng bé bướng bỉnh:
- Cậu bé kia… sao không tránh đường cho quan đi?
Đứa bé lễ phép chắp tay thưa:
- Bẩm quan, con là học trò… mải xem đèn kéo quân nên không biết ạ…
- Vậy thì phải làm một bài thơ. Không làm được, ta sai lính cho ăn đòn vì tội nói dối.
Ngay lập tức, quan chỉ vào chiếc đèn kéo quân đang tít mù những xe ngựa, những lính cầm cờ, vác gươm giáo; những Quan Công, Lã Bố cưỡi ngựa, xa giá… quan hạ lệnh:
- Đầu đề đấy, chú bé làm đi!
Cả đám đông, gồm người lớn, trẻ em nín thở sợ hãi. Nhưng chú bé thì bình tĩnh, thản nhiên ứng khẩu:
Một lũ ăn mày, một lũ quan
Quanh đi quẩn lại vẫn một đoàn
Đến khi dầu hết, đèn thôi cháy
Chẳng thấy ăn mày chẳng quấy quan
Bẽ mặt, quan chỉ còn liếc mắt ra hiệu cho lính… rút lui. Nhìn gương mặt sáng sủa, các cụ đoán “thằng bé này lớn lên sẽ trở thành nhân tài đây”. Quả vậy, Quý Tân sinh năm 1815 tại làng Thượng Cốc, huyện Gia Lộc (Hải Dương). Lớn lên cắp sách đến trường, Quý Tân học rất giỏi. Đến kỳ đi thi, Quý Tân đậu Tiến sĩ, được bổ nhiệm làm quan thanh tra. Một lần quan thanh tra Nguyễn Quý Tân được lệnh cấp trên cử đi kiểm tra một Tổng đốc nhận chức đã nhiều năm qua mà chẳng thấy làm được việc gì có lợi ích cho dân cho nước. Quan thanh tra Quý Tân đóng vai một học trò nghèo, xin làm phó nhỏ cho một phó cối, làm cho cụ Thượng bà. Làm vất vả mà chẳng được ngụm nước, nói gì được miếng cơm, đồng tiền! Đến trưa, phó cả bảo phó nhỏ ra chợ mua cái gì về ăn. Phó nhỏ kêu không đói, phó cả đi ăn một mình. Phó cả đi rồi, phó nhỏ lên nằm ngay sập gụ đặt giữa nhà, dang tay dạng cẳng. Lính hầu thấy vậy giật thót tim, liền bẩm báo với quan Tổng đốc. Quan nghe thế nổi giận, chạy ngay đến, mặt hằm hằm quát mắng: “Tên vô lại kia, sao dám nằm sập gụ của quan hử?”. Phó nhỏ ngồi dậy bình thản xưng danh là học trò nghèo, xin đi theo phó cả kiếm ăn. Quan thấy nói thế liền chỉ tay ngay lên bức tranh treo trên tường vẽ con quạ và 100 con chim sẻ, nói:
- Mày là học trò, phải vịnh ngay bài thơ về bức tranh này. Phải nói sao cho đủ trăm lẻ một con chim, nhưng cấm dùng chữ quạ và sẻ. Làm được ta tha, không làm được ta cho ăn đòn.
Phó nhỏ thưa: “Bẩm cụ lớn phải có rượu mới ra được thơ”, “Bầu rượu túi thơ mà”.
Lại còn thế nữa, nghĩ thầm vậy nhưng quan chủ nhà vẫn “ngậm bồ hòn làm ngọt” đành sai lính đem rượu và giấy bút bưng ra đưa cậu học trò. Nhắp hết chén rượu lần đầu, phó nhỏ hạ bút viết: Nhất chích (một con). Tợp tiếp chén thứ hai, phó nhỏ viết luôn. Nhất chích. Nhắp hết chén thứ ba, phó nhỏ hạ bút: Hựu nhất chích (lại một con). Tổng đốc sốt ruột, muốn nổi cáu thì hết rượu, quan lại đành sai lính đem tiếp rượu ra. Hết chén nữa, phó nhỏ lại hạ bút. Tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát chích (3, 4, 5, 6, 7, 8 con). Tợp chén rượu cuối cùng, phó nhỏ nói:
- Bẩm quan lớn, thơ đã làm xong…
Tổng đốc liền quát:
- Mày khinh tao là thằng không biết chữ nghĩa gì hay sao? Thế này là nghĩa làm sao, lấy đâu ra cho đủ 101 con?…
Phó nhỏ lễ phép thưa: “… nhất chích, nhất chích, hựu nhất chích là đủ ba con. Tam tứ là 12 con (3x4=12), ngũ lục là 30 con, thất bát là 56 con. Bẩm cụ lớn… thế là đủ 101 con…”.
Tổng đốc nguôi giận, “nhã nhặn” nói: “Nhưng phải có thơ mới lột tả được nội dung bức tranh…”. Nói xong, chính tay Tổng đốc rót rượu… mời phó nhỏ hạ bút.
Hà ô thiểu, hà điểu chi đa?
Thực tận nhân gian thiên vạn thạch
(Sao quạ ít, sao chim thì nhiều
Ăn hết của đời nghìn vạn thạch)
Liếc mắt theo ngọn bút phó nhỏ, quan chột dạ, “ôn tồn” hỏi:
- Trò là người hay chữ… thi cử ra sao mà còn lận đận vậy?
- Bẩm cụ lớn, trò mới chỉ đậu Tiến sĩ… được nhà vua bổ nhiệm làm quan thanh tra… Bữa nay vừa phải đi thanh tra các quan hàng tỉnh…
Mới nghe đến đây, mặt Tổng đốc xám lại như gà cắt tiết, run rẩy, mồ hôi đầm đìa, đang ngồi chễm trệ trên sập, vội tụt xuống, sụp lạy xin: “Xin quan thanh tra đại xá…”. Quan thanh tra nghiêm sắc mặt nói:
- Làm quan phải lo việc dân việc nước, đừng bao giờ khinh miệt kẻ nghèo khó.
Nguyễn Quý Tân thường được bạn bè thân mật gọi là “Nghè Tân” là một quan thanh liêm, rất thương dân nghèo nhưng không chịu nổi cảnh quan trường thối nát, tham nhũng. Quý Tân có hàng nghìn bài thơ tuyệt tác; thích đi du lịch nay đây mai đó ngắm cảnh non xanh, nước biếc; là người vui tính, phóng túng, quý bạn. Ông đã từ quan trở về vui thú với đồng quê.
PHÓ ĐỨC KHANG