QĐND - Vượt qua con đường mòn dốc đứng uốn lượn giữa những đám lau le cỏ dại cao quá đầu người, khó khăn lắm tôi mới tới được đỉnh một trong 3 mỏm đồi cao bên đông dòng sông Cửa Lục (tỉnh Quảng Ninh) mà nhân dân ở đây quen gọi là Ba Đèo. Từ đây có thể phóng tầm nhìn bao quát phần lớn phố phường, non nước Hạ Long. Quang cảnh này thật thú vị đối với tâm hồn những văn nghệ sĩ. Với tôi thì mỗi gốc sim, mỗi vạt cỏ và cả những ụ đất dãi dầu phong sương nơi đây đều hằn sâu những kỷ niệm của một thời trai trẻ.
 |
Trận địa pháo trên Cao điểm 104 do đồng chí Đặng Bá Hát chỉ huy (người đội mũ sắt, ở giữa đội hình) trong một trận chiến đấu, tháng 3-1972.
|
Trong giây lát tĩnh lặng, mắt tôi như nhòa đi, rưng rưng xúc động... Cảnh cũ còn đây, đồng đội đâu rồi! Dấu vết ụ pháo, chiến hào ẩn hiện trong cỏ cây lá rừng, hệt như trận địa giấu mình dưới tán lá ngụy trang năm ấy. Mỏm đồi 106 kia cao nhất, là trận địa 14,5mm và 12,7mm của tự vệ Nhà máy Cơ khí Hồng Gai. Mỏm đồi thấp 102 là trận địa pháo 37mm của Đại đội 8, Tiểu đoàn 241 bộ đội địa phương. Còn đây, Cao điểm 104 là trận địa pháo 37mm của Đại đội 34, thuộc Tiểu đoàn tự vệ bến Hồng Gai, do các anh Đặng Bá Hát làm Đại đội trưởng, Mai Văn Ngôn và Đoàn Văn Thành làm Đại đội phó, cùng 48 chiến sĩ “sao vuông đầu mũ” chiến đấu dũng cảm, chống cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Máu của các anh, các chị đã đổ xuống đất này...
Khẩu đội pháo do anh Nguyễn Văn Hiển chỉ huy, có Võ Như Côi người cùng quê với tôi, đặt ở chỗ này. Khẩu đội 2 anh Lê Minh Duật làm khẩu đội trưởng, đặt chỗ kia. Hầm ban chỉ huy đại đội nửa chìm nửa nổi của anh Đặng Bá Hát ở chính giữa ngọn đồi. Chiến sĩ nữ có các chị: Phạm Thị Thúy, Nguyễn Thị Bích, Nguyễn Thị Hường, Phạm Thị Nhuần... Các chiến sĩ nữ bền gan, vững chí trong suốt cuộc chiến trên trận địa này. Bom đạn ác liệt, cái chết kề bên... Đồi cao gánh nước lên khó khăn, nhiều khi vài ngày không tắm giặt, đánh răng rửa mặt, gáo nước chia đôi mà các chị vẫn vui tiếng hát, rộn rã tiếng cười...
Dưới chiến hào nóng bỏng thuốc súng, nhiều mối tình đã nảy nở. Từ hôm lên đây trực chiến, chị Nguyễn Thị Sửu (quê ở Nam Định, sinh năm Kỷ Sửu 1949) lớn tuổi nhất trong 6 chị em, nom tươi tắn hơn ngày làm dưới phân xưởng. Chị hay chải chuốt hơn. Mỗi khi gặp anh Nguyễn Xuân Nức quê ở Đông Triều, chị lại kín đáo bóp vỏ bưởi xịt nhẹ hương thơm vào mái tóc thề. Hai người gặp nhau ngượng nghịu lắm. Có bữa họ nhìn nhau chẳng ai đụng đũa. Anh Mai Văn Ngôn, Đại đội phó làm Bí thư Chi đoàn tinh tế gợi ý: "Anh chị yêu nhau thì báo cáo sớm với tổ chức, hết chiến tranh, đơn vị làm lễ cưới cho!". Còn anh Lê Minh Duật quê ở Cẩm Giàng, Hải Dương ngọng ríu chân sáo mỗi khi gặp chị Phạm Thị Nhuần. Nhuần gặp Duật đôi má hây hây đỏ. Chẳng hiểu họ yêu nhau đến mức nào. Một hôm, anh Duật gọi tôi ra góc khuất, dúi vào tay tôi hẳn một bao Tam Đảo. Tôi sững người, sao anh quý tôi đến vậy? Sau mới hiểu anh ngầm nhắn gửi rằng, Nhuần là “của riêng” anh. Bởi đôi lần anh đã bắt gặp tôi nhìn trộm cô gái tuổi 20 sống giữa lửa đỏ chiến tranh, da không sạm màu thuốc súng, vẫn trắng hồng, bờ vai tròn lẳn, vồng ngực đầy đặn, đôi mắt dịu dàng chan chứa tình thương... Lại còn bao chị đỏng đảnh làm duyên. Bao anh pháo thủ ngầm khoe tài vặt, mò mẫn tìm vỏ đạn làm lọ hoa, kiếm mảnh xác máy bay cưa giũa, làm lược trổ hình đôi chim bồ câu tặng các chị... Đại đội trưởng Đặng Bá Hát đã có 4 con, 1 trai 3 gái. Bọn trẻ, đứa lớn chỉ nhỉnh hơn đứa bé chỏm đầu. Lúc rảnh cũng ít thấy anh bông đùa. Chỉ huy trông sắc khí như thế nhưng dễ mềm lòng. Có lần lũ con ngã nước nơi sơ tán. Thời bao cấp, gạo ăn đã thiếu, thiếu cả thuốc men. Đêm ấy, thấy anh thẫn thờ không ngủ, sáng ra nom đôi mắt trũng sâu hơn cả những dịp phải trực chiến suốt mấy đêm liền.
 |
Các chiến sĩ tự vệ Hòn Gai gặp mặt sau 40 năm (1972-2012). Ảnh: Hiếu Nghĩa
|
Chuyện cũ xin nhớ đâu kể đấy: Hôm ấy nắng bỏng đất, mặt nước bốc hơi che mờ vật chuẩn. Dãy núi đá vôi Cửa Giữa ngả màu trắng đục. Đô thị vùng than sau trận không kích nom như tấm da báo. Dưới kia, xưởng thợ chỉ còn mấy cây cột sắt, vài thanh xà gồ lộ thiên. Rặng cây ven đường hằn sâu vết sẹo vỏ đạn găm vào. Xa xa khu Núi Béo, kho xăng dầu trúng trận bom sớm, khói đen bốc cao. Cơn gió Nam từ vịnh Hạ Long thổi vào trận địa trộn mùi nhựa cháy mất đi hương vị thơm tho của biển, nó chỉ làm cho cành lá ngụy trang cột trên nòng pháo lung lay. Chiếc đài bán dẫn treo ở Ban chỉ huy Đại đội phát ra 3 hồi: Tút... tút... mới biết được thời khắc. Tiếng léo nhéo không rõ từ căn hầm nào vọng lên:
- Thủ trưởng ơi! Mở dân ca và chèo...
- Nó sắp mò vào còn đài đóm gì! Anh trắc thủ Trần Văn Sơn hằn giọng.
Khoảnh khắc tĩnh lặng trong chiến tranh thật là hiếm hoi, cũng thật là đáng sợ.
- Mẹ kiếp, sao giờ này nó chưa mò vào nhỉ? Tiếng ai đó từ Khẩu đội 3 nói bâng quơ.
Bất giác, chiếc kẻng làm bằng ống thép treo giữa mỏm đồi rung lên, âm thanh giục giã. Tiếng chân người thình thịch. Đạn lên nòng rèn rẹt. Nguyễn Thị Hường, hai tai áp ống nghe máy thông tin VT- P108, truyền tin từ cỗ máy ra-đa đặt mãi tít ở đâu đó, thông báo tiêu đồ đường bay của kẻ địch mà mắt thường không nom thấy.
Cả trận địa náo động. Bốn trinh sát: Nguyễn Văn Đức, Trần Văn Sơn, Phạm Thị Thúy và Nguyễn Thị Bích cùng đồng thời nhất loạt hô:
-Tiêu!… Tiêu!... Mục tiêu hướng 34!
Đại đội trưởng Đặng Bá Hát tay cầm cờ lệnh hướng ra biển, miệng hô:
- Sục sạo mục tiêu.
- Rõ!
Bốn khẩu đội răm rắp nghe theo, nòng pháo vươn lên trời cao. Những chấm đen nhô lên từ Cửa Giữa, ban đầu nhìn qua ống nhòm mới phát hiện, trong chốc lát, mắt thường cũng thấy rõ đó là những máy bay phản lực siêu âm của Mỹ, cất cánh từ phía biển lao vào đất mỏ đánh phá.
- Sáu ngàn... Bốn ngàn... Ba ngàn... Hai ngàn 5 trăm...
Nguyễn Thanh Liêm, trắc thủ đo xa báo cự ly lũ cướp trời bay vào. Cờ lệnh trong tay Đặng Bá Hát dập xuống.
- Bắn!
Bốn cột lửa dựng lên đón đầu chiếc F105D. Loạt đạn đầu không trúng mục tiêu, nó nghiêng cánh tránh đạn hay trêu ngươi những khẩu pháo đất đối không chẳng rõ. Thế trận phòng không, ba thứ quân ở đất này khi ấy có: Đại đội 145 pháo 37mm và Đại đội 147 pháo 57mm của Tiểu đoàn 237 bộ đội địa phương, do Đại úy Bùi Duy Tú chỉ huy, đặt ở dải đồi cao 150m (nay là đồi đặt tháp truyền hình). Đại đội pháo 100mm của tự vệ mỏ Hà Lầm, Hà Tu có nhiệm vụ bảo vệ phía đông khu mỏ. Đại đội 4 pháo 57mm và Đại đội 6 pháo 37mm của Tiểu đoàn 241 bộ đội chủ lực, do Đại úy Đào Công Sự chỉ huy, có nhiệm vụ bảo vệ bờ tây Bãi Cháy. Tiểu đoàn 243 do Thượng úy Phạm Thả chỉ huy có 3 đại đội hỏa lực tầm thấp, đánh địch từ vùng rừng Hoành Bồ bay đến. Ở tầm cao có Sư đoàn 363 nhả đạn. Vùng trời tầng tầng, lớp lớp các loại hoa khói. Hoa đen là vết nổ đạn pháo trung cao, hoa trắng là vết nổ đạn pháo tiểu cao. Cùng những tia lửa đỏ từ nòng súng phòng không 12,7mm, 14,5mm và 25mm trên tàu hải quân vun vút bay lên... Chiếc F4H vừa hạ thấp độ cao bị súng 14,5mm của Tiểu đoàn tự vệ mỏ Hà Lầm đặt ở mỏm đồi 88 bắn cháy, tên phi công nhảy dù xuống vũng biển núi Hạm.
Vào lúc 15 giờ 45 phút ngày 12-7-1972, cả thị xã Hồng Gai gồng mình chịu trận. 38 chiếc máy bay Mỹ, chia làm hai cánh tập kích vào đất mỏ. Cánh thứ nhất gồm 16 chiếc, ném bom xuống thị trấn Hà Lầm, gây đại tang cho phố mỏ. Cánh thứ hai gồm 22 chiếc, không kích dữ dội bến phà Bãi Cháy, nơi hai con phà đang chở khách qua sông. Đại đội trưởng Đặng Bá Hát nhoài người ra khỏi công sự, tay cầm cờ lệnh, miệng hô:
- Bám sát mục tiêu bay thấp! Các khẩu đội lấy núi Bài Thơ làm chuẩn!
Bốn nòng súng cuốn lá ngụy trang nâng tầm, chuyển hướng theo đường bay của giặc Mỹ từ Cửa Giữa lao vào. Mỗi lần cờ lệnh trong tay anh dập xuống, cả trận địa rung lên, khói bụi mịt mù, tiếng pháo nổ đầu nòng, tiếng đầu đạn xé gió bay đi. Viên đạn từ trận địa này bắn, đốm lửa xanh lóe sáng bên cánh trái chiếc F4H khi nó đang ở độ cao 4000m bổ nhào xuống bến phà, cách trận địa 1.800m. Nó tròng trành giây lát, rồi tăng độ cao, cố chuồn ra biển. Bay vừa qua được dãy núi đá vôi Cửa Giữa thì toàn thân nó bùng cháy, rồi rơi tùm xuống nước.
Xế chiều, chiến sự càng gay go, cơ số đạn chiến đấu vơi dần, nòng pháo quá tải rực đỏ. Các khẩu đội pháo chưa kịp thay nòng, 2 chiếc F4H từ mặt tiền lao thẳng vào trận địa bắn phá, 4 khẩu pháo dũng mãnh nhả đạn. Tên phi công vừa bấm cò cắt bom đã bay vọt lên cao. Đường bay không ổn định, bom lạc hướng rơi xuống rừng thông nổ rung mặt đất, khói bụi mịt mù. Lợi dụng tình thế ấy, 2 chiếc A6a tập hậu đánh lén, ném 2 quả bom bi mẹ bụng chứa hàng trăm quả bom con trùm lên trận địa. Mắt tôi lóe lên một thứ ánh sáng ma quái, tức thì bóng đen ập xuống, hai tai mất khả năng phân biệt âm thanh, cơ thể nhẹ bẫng như người leo giếng đứt dây...
Khi tỉnh, tôi thấy cả trận địa khói bụi nghi ngút không nhìn rõ mặt người, tiếng bom bi vẫn nổ lục bục đâu đó. Bất chấp gian nguy, người bị thương nhẹ vượt ra khỏi công sự để cứu người bị thương nặng. Tôi cố dùng đôi tay sần xước rướm máu rướn người nhô lên khỏi mặt đất, bàng hoàng nhìn thấy Đại đội trưởng Đặng Bá Hát máu mê đầm đìa, hơi thở yếu dần. 16 giờ 40 phút hôm ấy, anh vĩnh viễn ra đi. Trận địa tơi tả, quá nửa đơn vị thương vong. Trước khi nhắm mắt, anh Duật thì thào đủ cho tôi nghe:
- Nhuần... ngoan đấy em ạ...
Bom thù đã giết chết các anh rồi! 5 người tử trận: Đại đội trưởng Đặng Bá Hát, Khẩu đội trưởng Lê Minh Duật, pháo thủ Khẩu đội 3 Võ Như Côi, pháo thủ Khẩu đội 1 Nguyễn Xuân Nức và anh lính pháo thủ số 1. Bí thư Chi đoàn Mai Văn Ngôn, khi thắp hương vĩnh biệt Nguyễn Xuân Nức khóc rằng, thế là anh mãi mãi không làm được cái việc mà anh ngỏ ý xe duyên cho Nức. Sau trận ấy, đơn vị rút vào rừng củng cố lực lượng. Tôi nhập ngũ đi B nên chẳng còn dịp gặp lại Nhuần...
Nay trở về đây, tình xưa, đồng đội cũ không còn. Mỏm đồi 104 cây rừng mọc mấy tầng cao. Ngày 30-10-1996, UBND tỉnh Quảng Ninh đã có Quyết định quy hoạch xây dựng Khu di tích lịch sử cấp quốc gia trận địa pháo 37mm với diện tích 20.677m2. Khi ấy, thắp nén hương trước mộ Đại đội trưởng, Anh hùng LLVT nhân dân Đặng Bá Hát, tôi thầm thì báo tin vui: Nay mai nơi này là khu lưu giữ chứng tích quân dân Quảng Ninh bắn rơi 200 chiếc máy bay Mỹ, bắt sống giặc lái. Đây còn là công trình tôn vinh người Anh hùng “sao vuông đầu mũ” và các chiến sĩ đã dũng cảm hy sinh trong mùa hè 1972 đỏ lửa!
Bút ký tư liệu VŨ PHONG CẦM