QĐND - Bố tôi là liệt sĩ Nguyễn Văn Thành, quê ở xã Phúc Hòa, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây (cũ). Hòm thư quân bưu: 86.555.YK.C4, hoặc 86.555.YK.C3.B15. Những thông tin trên giấy báo tử: "Họ và tên: Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1939, cấp bậc thượng sĩ, chức vụ tiểu đội trưởng, đơn vị: D4 - E96 - F69 KB, hy sinh ngày 21-4-1970, tại Tây Ninh". Suốt gần hai chục năm qua, chị em tôi đã đi khắp các tỉnh Hà Tây, Thanh Hóa, Bắc Giang, Thái Bình, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai... tìm gặp được 33 vị chỉ huy và đồng đội trực tiếp chiến đấu cùng bố và đã có hai lần vào chiến trường xưa tìm kiếm. Nhưng…

Theo dấu chân cha

Từ ga Sài Gòn, tôi chọn Quốc lộ 13 để đi vì chính con đường này và các địa danh Mỹ Phước, Lai Khê, Chơn Thành, Chà Là, An Lộc, An Phú, cầu Sài Gòn... đã đi vào lịch sử Trung đoàn 96-Đoàn Pháo binh Biên Hòa, nơi từng in dấu chân của bố tôi. Chuyện cũ kể rằng, khi bố tôi ở Tiểu đoàn 3 đã vượt qua Quốc lộ 13, sông Sài Gòn sang trảng Bầu Cột, suối Bà Chiêm, Kà Tum của Tây Ninh chiến đấu để rồi mãi mãi nằm lại trên mảnh đất Tây Ninh.

Gia đình liệt sĩ và đồng đội xác định gốc cây cày nơi bộ đội trinh sát năm xưa

 

Đến cầu Sài Gòn, xe của chúng tôi dừng mua ít trái cây và hương hoa. Tôi lững thững lên giữa cầu nhìn xuống dòng nước mà hai dòng nước mắt bỗng dưng làm nhòa đi hình ảnh bố cùng đồng đội đang cố gắng bí mật vượt sông. ông Tám, ông Năm là hai đồng đội của bố tôi xúc động kể lại rằng cả tiểu đoàn vượt sông ban đêm và cách cầu Sài Gòn khoảng một ki -lô-mét.

Từ cầu Sài Gòn đến ấp Trảng Trai, xã Tân Hòa gần 20km. Chúng tôi đến nhà ông Nguyễn Hải Đường, cán bộ thương binh xã hội xã Tân Hòa. ở Hà Nội, tôi đã gọi cho ông nhiều lần, được ông cho địa chỉ, tả đường đi. Chúng tôi tới thì đã thấy cả hai vợ chồng ông đứng đón ở cổng. Hình như đoán được sự nôn nóng của chúng tôi, ông nói, chiều nay ông sẽ trực tiếp đi cùng đoàn…

Dùng nhiều dụng cụ như la bàn, bản đồ địa hình in trong những năm 60 và 70 của thế kỷ trước, đúng 14 giờ chúng tôi bắt đầu đi tìm lộ Trắng. Lộ Trắng ngày xưa là con đường cát trắng, pha ít sỏi, bộ đội ta gọi là lộ Trắng, địch gọi là đường Lệ Xuân. Giờ đây được rải lại nhiều lần bằng sỏi đỏ nên không còn trắng nữa. Rất tình cờ lộ Trắng cần tìm chính là con đường chạy qua mặt tiền nhà ông Hải Đường.

Để tìm trảng Bầu Cột, ông Tám và ông Năm chủ động gặp hỏi những người cao tuổi. Đi đến đâu, các ông cũng nói vanh vách những điểm chuẩn. Các ông mô tả và vẽ trảng Bầu Cột ra giấy. Trên trảng con có một cây cày thân rất to, chẽ ra làm hai nhánh, trinh sát thường trèo lên cây để quan sát. Trên bờ suối cạn là căn cứ của Trung đoàn 96, nơi ông Tám, ông Năm và bố tôi cùng làm cảnh vệ. ông Tám, ông Năm nhớ như thế nhưng không có ai biết trảng Bầu Cột ở đâu.

Hỏi mãi, xe ô tô chạy vòng vèo nhiều lần trên lộ Trắng khiến ông Tám nhận ra đoạn đường gấp khúc xưa có tên là Bầu Châm. ông khẳng định: "Thế thì đi hết Bầu Châm sẽ đến trảng Bầu Cột".

Như vậy, địa danh trảng Bầu Cột đã hé mở việc tìm kiếm. ông Hải Đường phấn khởi ra mặt, đưa chúng tôi đến gặp cụ Năm Bò ở gần đó. Cụ là người Khơ -me, cán bộ kháng chiến của ta, năm nay đã 85 tuổi nhưng trí nhớ còn tốt, chỉ tội tai cụ hỏng nặng. Chúng tôi phải nhờ cô cháu gái dịch ra tiếng Khơ -me ghé sát cụ nói như thét vào tai câu gì đó. Cụ nói đi hết Bầu Châm, sẽ tới Bầu Cột. Bầu Cột gần xóm Miên, cách đây 3km. ông Tám đắc chí vỗ tay khẳng định thêm: "Đúng rồi! chính xóm Miên là xóm toàn người gốc Miên ở, chúng tôi phải luồn qua để ra đường đi lên Kà Tum sau năm 1970". Mọi người thở phào, khép lại buổi chiều đầu tiên làm việc có hiệu quả.

Sáng hôm sau, chị gái tôi và anh rể thức dậy từ sớm mổ gà, đồ xôi, sắm sanh lễ vật để mang đi thắp hương. Còn tôi cùng ông Hải Đường và ông Năm, ông Tám đi trước bằng hai xe gắn máy tiếp tục xác định trảng Bầu Cột. ông Tám quanh quẩn trước một căn nhà vách liếp và vào hỏi thăm thì mọi người trong nhà đều còn trẻ, không biết gì về trảng Bầu Cột. Mọi người mách ông đi hỏi thăm bà Ba Cô.

Khi vào nhà, chúng tôi thấy bà rất hiền từ, phúc hậu đang ngồi đung đưa trên võng xem vô tuyến. Bà nhìn chị em tôi với một cái nhìn thương cảm nhưng bà cũng chưa nghe nói trảng Bầu Cột bao giờ. Bà liền gọi cậu con trai từ nhà trong ra và nói: "Tí út, mày có nghe nói trảng Bầu Cột bao giờ không? ". Tí út trả lời: "Có, nhưng lâu lắm rồi, giờ người ta không gọi là Bầu Cột nữa". Tí út suy nghĩ một lát rồi ra dẫn ông Tám đi vòng vèo qua mấy lô cao su, khoảng 2 cây số vuông, chúng tôi đã tìm thấy điểm đầu của một con suối cạn.

Suối cạn mùa này không có nước, cây cối um tùm, dây leo chằng chịt. Chúng tôi phát quang một lối để xuống suối, nước suối trong veo. Mấy chú gà rừng chạy nhanh vào nơi rậm rạp. ông Tám mừng vui khẳng định: "Đúng rồi! Đúng nơi đây là cứ của trung đoàn rồi! ". ông đứng sững lại, nhìn ngang, nhìn dọc và giới thiệu với mọi người: "Tại nơi tôi đang đứng đây là cổng trung đội cảnh vệ của trung đoàn".

Nói xong ông lầm lũi, cúi đầu đi về hướng Đông Nam, nhiều lần ông suýt đập đầu vào cây cao su. ông dừng lại một lát rồi tiếp tục đi thẳng. ông ngoảnh lại hỏi Tí út: "Khu này trước kia có một cây cày rất to cao, thân chẽ ra làm hai nhánh?".

Không khó khăn lắm, ông Hải Đường và Tí út đã tìm được một gốc cây rất to, khó có thể phân biệt là một gốc liền hay hai gốc quấn vào nhau ở gần miệng của một hố bom bị san lấp không đầy. ông Tám reo lên: "Chính gốc cây cày rồi! Dưới cây cày là một hầm trú ẩn của ta, khi bị lộ, máy bay đánh bom trúng hầm, cây cày không bị làm sao, giờ vẫn còn dấu tích của một hầm bên cạnh và hố bom thì chuẩn quá rồi!".

ông Tám không giấu nổi xúc động nói tiếp: "Không ngờ tôi lại tìm được trảng Bầu Cột sau 40 năm. Đây chính là nơi đồng đội của tôi: Thành, Minh, Mộc hy sinh mà chính tay tôi chôn cất". Giờ đây, địa hình thay đổi quá nhiều. Cả trảng Bầu Cột và rộng hơn thế nữa là rừng cao su bạt ngàn…

Nắm đất mang về

Để xác định nơi có ba ngôi mộ, ông Tám lại lầm lũi, cúi đầu bước từ gốc cây cày. ông căn bản đồ, chỉnh hướng la bàn rồi nói to, rõ: "Sau khi chôn ba đồng chí, tôi ngoảnh lại nhìn cây cày, ước chừng 80-100m, sau đó tôi theo con đường mòn mấp mô và khúc khuỷu, hết khoảng 20 phút để về trung đoàn. Tôi tin rằng nơi chúng ta đang đứng là nơi có ba ngôi mộ".

Các ông quyết định nhằm hai ụ mối gần nhau và một mô đất cao hơn bình thường là điểm đào đầu tiên. Chị em tôi sắp xếp, chuẩn bị đồ lễ để thắp hương xin thần linh, thổ địa và vong linh của bố tôi để đào nơi đã định.

10 giờ 30 phút, lúc này giờ cạo mủ cao su cũng vừa tan, người dân địa phương kéo ra mỗi lúc một đông. Người chia sẻ, kẻ hỏi thăm, ai ai cũng tỏ lòng thành kính với các liệt sĩ, mong cho chúng tôi sớm tìm được mộ bố. Trong đám đông, ngoài Tí út đã cùng với chúng tôi từ sáng sớm có thêm 4 người khác cùng là cháu trai, cháu dâu của bà Ba Cô, sau này chúng tôi mới biết tên là Tùng, út Phượng, út Mười Hai và Quân đã chủ động ở lại giúp đỡ chúng tôi. Đợi chúng tôi thắp hương xong, mấy thanh niên đứng bên cũng lấy hương cắm lên mấy mô đất. Tôi nghe rõ giọng nói nhỏ nhẹ của út Phượng khấn: "Chúng tôi là người dân sống ở quanh đây, cầu mong mấy ổng ở đâu cho con cháu và người thân sớm được tìm thấy để đưa các ổng về với quê hương và tổ tiên đất Bắc".

Nhát cuốc đầu tiên do chính tôi động thổ, rồi tất cả thành viên trong đoàn, người cuốc, người xúc rất nhiệt tâm... Mọi người ai cũng đào, cuốc hồ hởi với một niềm tin sẽ tìm thấy bố tôi.

Thế nhưng, ngày thứ nhất đào những nơi do ông Tám xác định không thành công. Ngày thứ hai đào rộng hơn ra xung quanh. Ngày thứ ba đào nơi có nhiều cỏ cây khác lạ, nhiều mỏm đất lồi lên, trũng xuống, tất cả đều được đào bới cẩn trọng. Bước sang tuần thứ hai, tôi với ông Tám đi hỏi trong dân xem có ai biết ba ngôi mộ và những ai khai thác đầu tiên trảng Bầu Cột, may chăng họ thấy xuất lộ hài cốt, hoặc biết được đội quy tập nào đã đến đây. Hai đồng đội của bố tôi không tin nổi ở mình, sốt ruột đứng ngồi không yên cũng đã phải gọi thêm ông Minh là trinh sát của trung đoàn vào hỗ trợ, gọi điện liên tục về Thanh Hóa tham vấn Tham mưu trưởng Trung đoàn Nguyễn Hồng Lưỡng. Chị em tôi thật sự bồi hồi, nóng ruột, vòng về Bộ CHQS tỉnh Tây Ninh, Sở Lao động -Thương binh và Xã hội và các nghĩa trang trong tỉnh kiếm tìm nhưng đều không thấy có tên bố tôi trong danh sách.

Mười ba ngày kiếm tìm không ngơi nghỉ, cả rừng cao su, cây cách cây, hàng cách hàng hơn 1.600m2 được đào xới. ông Ba Hà là chủ lô cao su cũng thật lòng giãi bày: "Nếu có thấy, dù phải bứng cả rừng cao su, ông cũng vui lòng vì việc nghĩa".

Buổi chiều cuối cùng, ánh nắng vàng nhạt dần sau những tán caosu làm cả bầu trời ấp Suối Bà Chiêm tối nhanh hơn mọi ngày. Lòng tôi se lại, nặng trĩu những nghĩ suy. Thực sự tôi không muốn từ bỏ sớm cuộc tìm kiếm này nhưng vì thời gian nghỉ phép của tôi đã hết. Tôi cố nán lại, đi xung quanh thắp hết những nén hương còn lại, chạy đây, chạy đó quanh trảng Bầu Cột năm xưa, nơi bố tôi xung trận.

Tôi cố gắng khoét thật sâu mỗi hố đào một nắm đất mang linh hồn bố về nhà mà lòng quặn đau.

Trên lối ra cánh rừng cao su, những người bạn mới quen cùng ông Tám, ông Năm, ông Hải Đường đang đứng đợi cũng buồn rầu không ngăn nổi những dòng nước mắt thương cảm. Chị em tôi và anh rể bắt tay, cảm ơn Tí út, Tùng, Yến, Quân, Tuyến, út Phượng, Đạt, Đức anh, Đức em mà chợt nhớ đến câu hát: "Trong đấu tranh người Miền Đông anh dũng, trong lao động người lại cũng anh hùng"

Mặc dù chuyến đi chưa tìm thấy bố nhưng đã làm cho tôi vơi lòng buồn tủi, nhẹ bớt nghĩ suy trĩu nặng từ bấy lâu bởi nghĩa tình của những người đồng đội, những cán bộ xã Tân Hòa và người dân hai ấp Suối Bà Chiêm, ấp Trảng Trai đã dành cho gia đình tôi. Tôi thành thật muốn nói những lời tri ân tới họ qua bài viết này.

Bài và ảnh: Nguyễn Văn Trường