Bà Nguyễn Kim Nữ Hạnh giới thiệu tác phẩm "Tiếp bước chân cha" của gia đình. Trên bàn thờ là tượng đồng cố giáo sư Nguyễn Văn Huyên, tác phẩm điêu khắc của hoạ sĩ Vương Ngọc Bảo
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên là vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục đầu tiên của nước Việt Nam mới. Ông là một trong những trí thức lớn của Việt Nam trong thế kỷ 20. Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên là một tấm gương đáng quý và cao đẹp”. Ngày nay các con của Giáo sư đã “Tiếp bước chân cha”. Họ thật sự là những gia đình văn hóa mẫu mực của Thủ đô Hà Nội.

Dưới một mái nhà

Ngôi nhà số 2 phố Trần Hưng Đạo (Hà Nội) là nơi sinh sống của 4 gia đình con của Giáo sư, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Văn Huyên. Tôi đến thăm gia đình gặp lúc hai người con của GS Nguyễn Văn Huyên, PGS-TS Nguyễn Văn Huy cùng với người chị gái đang sắp xếp, tập hợp tư liệu, chuẩn bị cho xuất bản cuốn thứ tư “Tuyển tập Nguyễn Văn Huyên”. Phòng khách được bài trí đẹp, ấn tượng nhất là trên tường treo 6 bức tranh do cụ Vi Kim Ngọc - phu nhân của GS Huyên vẽ lúc sinh thời. Hai lọ hoa đặt trên bàn thờ còn tươi như vừa được hái từ vườn nhà. Bà Nguyễn Kim Nữ Hạnh, trưởng nữ của GS Nguyễn Văn Huyên kể:

- Cha mẹ tôi sinh được 4 chị em. Tôi là cả, tiếp đó là Nguyễn Kim Bích Hà, Nguyễn Kim Nữ Hiếu và Nguyễn Văn Huy. Từ chiến khu Việt Bắc, năm 1955 gia đình tôi chuyển về Hà Nội. Khi chúng tôi trưởng thành, xây dựng gia đình đều được cha mẹ chia cho một phần đất làm nhà.

Dưới mái nhà của GS Nguyễn Văn Huyên, các con ông đều thành đạt. Nữ Hạnh là kỹ sư Đường sắt; Bích Hà là PGS-TS hóa học; Nguyễn Kim Nữ Hiếu là Đại tá, PGS-TS, Thầy thuốc ưu tú, nguyên là Phó giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Người em út là Nguyễn Văn Huy, PGS-TS Dân tộc học, nhiều năm làm Giám đốc Bảo tàng Dân tộc Việt Nam. Ngày 5-6-2000, tại Niu Y-oóc (Mỹ), Hội đồng văn hóa châu Á đã trao giải thưởng John D.Rockerfeller III (1999-2000) cho Nguyễn Văn Huy vì những đóng góp cho việc xây dựng Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và sự giao lưu giữa các nhà khoa học Việt Nam với các nước trong việc bảo tồn văn hóa dân tộc.

Sẽ thiếu sót nếu không nhắc tới những cô dâu, chàng rể của gia đình này đều là những người thành đạt. Trong đó có GS Nguyễn Lân Dũng, chồng của Nguyễn Kim Nữ Hiếu, là đại biểu Quốc hội. Được biết, hồi đất nước có chiến tranh, rồi bao cấp, lương bộ trưởng của bố, lương công chức của mẹ không đủ trang trải, chị em họ phải bươn trải. Mấy chị em phải nuôi thêm lợn, gà, ngan. Đêm đến lại rang lạc để ngày mai kịp bỏ mối cho các quán. Suốt một thời gian dài cả 4 gia đình (8 con 8 cháu), nấu một nồi cơm chung. Nhà có chiếc tủ lạnh cũng mang bán lấy tiền trang trải. Để dành dụm tiền cho các cháu ăn học, từng bữa họ phải đun nấu bằng trấu. Sau này khi kinh tế đã khá hơn, họ càng gắn bó, chia sẻ ngọt bùi với nhau. Tất cả mọi người trong gia đình đã xây dựng cho mình một nhân cách để có được lối ứng xử tốt trong gia đình và xã hội. Tình yêu thương, đùm bọc đó không chỉ có trong tinh thần mà cả trong vật chất.

Sự thành đạt của các con được bắt nguồn từ truyền thống của gia đình “Danh gia vọng tộc”. Thân phụ của GS Nguyễn Văn Huyên tên là Nguyễn Văn Vượng, hiệu Minh Tâm sinh tại làng Lai Xá (Kim Chung, Hoài Đức, Hà Tây). Dòng họ Nguyễn làng Lai là “Một họ tộc văn chương nối truyền tiếng thơm trọng vọng”. Thân mẫu của giáo sư quê gốc ở làng Hoa Đường (Hải Dương) “nam Hành Thiện, đông Hoa Đường” để chỉ hai làng khoa bảng nổi tiếng. Vốn có truyền thống nho giáo và yêu nước, vào đầu thế kỷ 20, các cụ đã hướng các con học thành tài. Cụ bà đã quyết định chuyển các con đang học chữ Hán Nôm sang chữ quốc ngữ và học tiếng Pháp rồi cho đi du học. Cụ bà đã làm thơ khuyên con “Khăng khăng ghi lấy một lòng/Sang Âu, sang Mỹ học tòng nghề hay/ Muốn khôn thì phải tìm thầy”. Tuy gia đình chẳng khá giả gì nhưng các cụ vẫn cho cả hai anh em sang Pháp học. Ngày đầu mới sang Pháp, hai anh em không có áo dạ mặc mùa đông, chống chọi với cái rét chỉ bằng chiếc áo gió khoác ngoài. Mãi sau này bà mẹ mới gửi sang cho mỗi người một chiếc áo bông. Vì nhà nghèo, để có tiền ăn học, từ năm 1932-1935, Nguyễn Văn Huyên vừa đi học vừa giảng dạy tại Trường đại học Ngôn ngữ Phương Đông.

Ý thức được nỗi đau mất nước, với tinh thần hiếu học và động cơ học tập vì dân vì nước, cùng với trí thông minh, Nguyễn Văn Huyên đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ của một chàng sinh viên Việt Nam nghèo trên đất Pháp. 9 năm học ở Pháp, Nguyễn Văn Huyên đã đỗ cử nhân văn chương (1929), đỗ cử nhân luật học (1931). Ngày 17-2-1934, Nguyễn Văn Huyên bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ tại Trường đại học Tổng hợp Xoóc-bon (Pa-ri). Lần đầu tiên trong lịch sử của trường có một sinh viên Việt Nam đã bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ văn khoa. “Đó là sự kiện lớn lao đáng ghi nhớ trong lịch sử Trường đại học Xoóc-bon” nhận xét của ông Vendryes, Chủ tịch Hội đồng giám khảo. Còn người em của Nguyễn Văn Huyên là Nguyễn Văn Hưởng đỗ hai bằng cử nhân luật và văn chương vào năm 1933-1934. Năm 1935, Nguyễn Văn Huyên vào trường Bưởi dạy môn sử, địa. Lúc bấy giờ, ở trường Bưởi đã có một tập thể giáo sư có bằng cấp cao nên được các quan chức Pháp rất kiêng nể. Nguyễn Văn Huyên dạy học ở đó đến năm 1938 rồi chuyển về trường Viễn Đông Bác cổ làm công tác nghiên cứu và giảng dạy ở bậc đại học. Cũng từ đây, ông đã tham gia hoạt động cùng các tầng lớp trí thức yêu nước. Tham gia Hội truyền bá quốc ngữ. Ngày 3-11-1946, tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (khóa I), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Chính phủ mới, Nguyễn Văn Huyên giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục.

Người mẹ của Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên được Bác Hồ gọi là Bá Mẫu. Khi Cụ mất, Bác Hồ đã gửi thư cho gia đình: “Tôi rất buồn được tin Bá Mẫu qua đời. Nhân danh tôi và nhân danh Chính phủ, tôi kính gửi lời chia buồn với cụ và ông cùng quý quyến”.

Gia tài để lại

Sinh thời, GS Nguyễn Văn Huyên tuy rất bận nhưng vẫn hết sức chăm lo dạy dỗ các con đến nơi đến chốn. Các cụ dạy con phải biết yêu thương con người, yêu quý bạn bè, đồng chí; quý trọng thầy cô giáo, yêu thương đùm bọc những người thân trong gia đình. Cụ dạy: “Dù bất cứ công việc nào cũng phải làm bằng lòng say mê, có như thế mới tập trung tư tưởng, trí tuệ sâu sắc, mới cống hiến được nhiều cho đất nước”. Cụ bà Vi Kim Ngọc lúc đầu chỉ làm nội trợ trong gia đình, đã vượt lên cùng chồng tham gia kháng chiến. Khi 4 người con đã tự phục vụ sinh hoạt của mình thì cụ mới ra làm việc xã hội. Từ trình độ văn hóa tiểu học, cụ đã học xong phổ thông trung học, rồi tốt nghiệp y sĩ chuyên ngành ký sinh trùng. Cụ còn theo học tiếng Nga, tự học nâng cao tiếng Pháp, vươn lên đảm nhiệm công việc trong phòng thí nghiệm của GS Đặng Văn Ngữ. Chính nhờ có vốn kiến thức và hiểu biết, nên cụ đã cảm hóa được các con. Cụ không chỉ là một người mẹ rất mực yêu thương mà còn là một người bạn của các con. Cụ viết nhật ký, tâm sự với các con, khuyên các con phải sống xứng đáng là con người thời đại Hồ Chí Minh. Cụ còn dặn dò các con: “Phải có tâm hồn con người, có như vậy mới biết lẽ phải, biết sống vì mọi người và cũng để mình sống trọn vẹn” chiều chuộng các con nhưng lại rất nghiêm khắc, không bao giờ các cụ dùng roi vọt với các con, đòi hỏi các con tính tự giác cao. Các cụ luôn nhắc con phải biết tự xem xét lại mình, luôn có ý thức phấn đấu trong học tập, công tác!

GS Nguyễn Văn Huy kể:

- Tôi trưởng thành được như hôm nay là nhờ công ơn dạy dỗ của cha mẹ. Hồi còn học phổ thông tôi yếu môn văn, lại không hòa đồng với các bạn. Cha tôi đã nghiêm khắc chỉ ra khuyết điểm và hướng dẫn tôi phương pháp học tập sao cho kết quả tốt. Cụ luôn giữ tốt mối liên hệ giữa gia đình và nhà trường để nắm bắt kết quả học tập, rèn luyện của con mình. Khi học đại học, trước khi chọn chuyên ban, tôi hỏi ý kiến, cha tôi khuyên: “Chuyên ban nào cũng quan trọng, cũng đều có ích cho đất nước, miễn là con say mê, tâm huyết với nó”. Vâng lời bố, tôi đã chọn ngành dân tộc học mà mình yêu thích.

Trong lá thư gửi Bích Hà đang học tại Trường đại học Lô-mô-nô-xốp (Liên Xô), GS Nguyễn Văn Huyên viết: “Ngành nghề nào cũng phải cố gắng. Có thật an tâm mới vui vẻ và cố gắng được. Mỗi năm sẽ bước lên bậc cao hơn…”.

Giữ nếp gia phong

Sau ngày GS-TS Nguyễn Văn Huyên qua đời (1975), cụ bà Vi Kim Ngọc đảm đương trách nhiệm “lãnh đạo” gia đình. Điều mà cụ bà quan tâm nhất là phải giữ bằng được nếp gia phong. Cứ vào sáng mùng một Tết, cụ gọi các con, cháu đến trước bàn thờ ông để “báo công”. Ai có khuyết điểm hoặc kết quả học tập, công tác chưa cao đều phải báo cáo với ông bà. Các cháu còn được phép nói lên nguyện vọng của mình. Bà Nữ Hạnh kể: “Tết năm ấy, cháu Nguyễn Kim Hậu thi đỗ vào cao học, chưa cho bố mẹ biết đã mang giấy báo kết quả đến “báo công” với ông bà”.

Trước khi đi xa, cụ Vi Kim Ngọc còn dặn dò: “Mẹ mong tha thiết các con gái, con trai, con rể, con dâu sống với nhau hạnh phúc như cha mẹ, đồng thời các con hun đúc truyền thống nếp sinh hoạt cao thượng của ông bà cho các cháu. Hết thế hệ này sang thế hệ khác kế tiếp bao giờ cũng nếp nhà xứng đáng con cháu của ông bà…”.

Gia tài lớn nhất GS Nguyễn Văn Huyên để lại chính là nền móng của một truyền thống hiếu học sống có ích cho xã hội, cho đất nước. Cả 4 người con của giáo sư đều thành đạt trong đó có 3 PGS, TS. Một thư viện đồ sộ với gần 10 nghìn cuốn sách, tài liệu quý bằng nhiều thứ tiếng sau này được các con, cháu coi như một “ngân hàng tri thức” giúp họ rất nhiều trong học tập, nghiên cứu khoa học. Có lần, trước khi hết nhiệm kỳ về nước, vị Đại sứ Pháp tại Hà Nội đã gọi điện xin được đến thăm lần nữa thư viện của GS Nguyễn Văn Huyên.

Noi gương ông bà, cha mẹ, các cháu đều học tập, rèn luyện tốt. Trong số 8 người cháu nội, ngoại của GS thì 7 người đã có bằng thạc sĩ và tiến sĩ, một cháu đang học năm cuối đại học. Cháu Nguyễn Lân Hiếu, là bác sĩ chuyên khoa về tim trẻ em, đang làm luận án tiến sĩ, đã được đi trình diễn phẫu thuật ở nhiều nước trên thế giới. Cháu Trương Huyền Chi bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ về nhân học tại Ca-na-đa khi mới ngoài 20 tuổi. Nguyễn Kim Hiền có 2 bằng thạc sĩ, đang làm luận án tiến sĩ về tôn giáo...

Tôi hỏi PGS-TS Nguyễn Văn Huy: “Động lực nào để mọi người trong đại gia đình đều giỏi giang, thành đạt, cống hiến được nhiều cho đất nước?”. Ông Huy suy nghĩ một lát rồi nói: Kết quả đáng tự hào ấy được bắt nguồn từ truyền thống gia đình; có sự dạy dỗ đến nơi đến chốn của ông bà, cha mẹ. Nhưng thứ quan trọng nhất là chúng tôi biết yêu thương, đùm bọc nhau, dắt tay nhau đi trên đường lớn. Tấm lòng cưu mang, chăm lo vun trồng cho các cháu thật lớn, thật nhiều mới được như ngày hôm nay”.

“Vườn ươm” mà GS Nguyễn Văn Huyên và bà Vi Kim Ngọc dày công vun trồng nay đã sum sê cây trái và hoa ngọt. Họ đã và đang “Tiếp bước chân cha” như tên cuốn sách viết về cha mình mà tác giả Nguyễn Kim Nữ Hạnh tặng tôi trước khi chia tay.

Bài và ảnh Nguyễn Đình Phượng