QĐND - Người thầy 75 tuổi đời Đoàn Văn Điện đã cả đời gắn bó và tâm huyết với lĩnh vực giáo dục từ phổ thông đến đại học. Điều số một để ông theo đuổi mấy mươi năm qua là xây dựng được một ngôi trường không chạy theo thành tích, dạy thật, học thật, điểm thật, làm thật. Để làm gì? Với ông: Cuộc đời cần thế!

Hiệu trưởng đại học công “đi trước thời đại”

Ông Điện quê ở huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên trong dòng họ Đoàn có khá nhiều người nổi tiếng. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, đến năm 1955 thì đi học Đại học Sư phạm. Học xong, ông về công tác tại Trường Đại học Nông nghiệp I. Năm 1973, sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, ông được phân công đi theo đoàn khảo sát kinh tế kế hoạch nông nghiệp miền Nam. Lúc đó, hình thế cuộc chiến giữa ta và địch ở miền Nam giống như hình da báo. Nhiệm vụ của đoàn là lập kế hoạch nông nghiệp, xây dựng thế trận kinh tế quốc phòng cho vùng này.

Ông Đoàn Văn Điện với triết lý giáo dục coi trọng thực chất là vấn đề hàng đầu.

Sau khi khảo sát, trên quyết định thành lập Trường Trung học Nông nghiệp Miền, đóng tại Lộc Ninh. Năm 1974, ta thành lập Tổng cục Nông nghiệp miền Nam. Ông Đoàn Văn Điện cùng một số đồng chí được phân công về xây dựng Trường Trung học Nông nghiệp Miền, có nhiệm vụ đào tạo cán bộ nông nghiệp cho miền Nam phục vụ phát triển nông nghiệp miền trong chiến tranh, đồng thời trường cũng có mục tiêu lôi kéo trí thức từ thành phố ra vùng giải phóng để đào tạo thành cán bộ của ta sau này. Khoảng đầu tháng 4-1975, một số cán bộ của trường được điều tham gia tiếp quản Sài Gòn. Ông trở thành quyền hiệu trưởng nhà trường. Có một sự tình cờ thú vị, buổi khai giảng đầu tiên đúng vào buổi sáng ngày 30-4-1975. Khi ông Điện vừa đọc diễn văn khai giảng khóa học đầu tiên xong thì cũng là lúc nghe tin Tổng thống Dương Văn Minh đọc bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Cán bộ, học viên vỡ òa trong niềm vui chung, buổi khai giảng của nhà trường càng trở nên tưng bừng trong ngày hội lớn. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Trường Trung học Nông nghiệp cũng được rời cứ về đóng tại Long Định, Tiền Giang, vốn là trung tâm nghiên cứu lúa của chế độ cũ. Sau khi trường ổn định nơi địa điểm mới, ông được lệnh bàn giao trường cho người khác phụ trách để về xây dựng Khoa cơ khí của Trường Đại học Nông - lâm - súc Sài Gòn (sau đó đổi thành Đại học Nông nghiệp 4 và hiện là Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh).

Sau gần 6 năm xây dựng khoa Cơ khí nông nghiệp trở thành một khoa lớn với gần 70 cán bộ, nhân viên và hàng trăm sinh viên chuyên ngành của Đại học Nông nghiệp 4, năm 1982, ông được cử đi học quản lý kinh tế tại Liên Xô. Về nước, ông Điện được bổ nhiệm làm Phó hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Sau này, trên cương vị Hiệu trưởng nhà trường, ông Điện đã có những quyết sách “đi trước thời đại”, khi tăng cường hợp tác quốc tế vốn là vấn đề còn rất mới mẻ trong lĩnh vực giáo dục.Trên tinh thần tự lực tự cường, ông tập trung sự nỗ lực xây dựng “trường ra trường, lớp ra lớp”, chỗ ăn ở ký túc xá, quang cảnh chung của trường khang trang văn hóa, chẳng những nâng cao đời sống văn hóa cho sinh viên Việt Nam mà còn đủ điều kiện để đưa sinh viên nước ngoài (chủ yếu là sinh viên Cam-pu-chia) về ở ngay trong trường để có điều kiện học tập tốt hơn. Trong 5 năm làm hiệu trưởng, ông đã đẩy mạnh việc giao lưu, hợp tác quốc tế, kết quả là từ chỗ “đóng kín cổng”, Đại học Nông Lâm đã có quan hệ với hơn 50 tổ chức quốc tế, tỷ lệ giảng viên có trình độ sau đại học từ 8% lên gần 50%. Mặc dầu coi trọng sự hợp tác quốc tế, nhưng ông luôn coi trọng tinh thần tự lực tự cường, lấy sự nỗ lực của bản thân nhà trường là chính, sự hợp tác với bên ngoài là sự hỗ trợ tích cực. Tư duy “đi trước thời đại” của ông thể hiện ở nhiều lĩnh vực, từ việc kết hợp với nông lâm trường, các địa phương xin kinh phí in giáo trình phục vụ giảng dạy đến việc xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư cho các phòng thí nghiệm, nhà ở khang trang bề thế… Ông là người giàu lòng nhân ái, với cán bộ, nhân viên, đặc biệt với sinh viên, ông tỏ ra nghiêm khắc nhưng rất bao dung.

Khi ấy tất cả các trường đại học trên địa bàn thành phố đều lấy ngày kỷ niệm truyền thống là ngày giải phóng Sài Gòn 30-4, mặc dù truyền thống của trường có từ trước đó hàng mấy chục năm, kể từ khi nhà trường có quyết định thành lập. Ông đã mạnh dạn chọn ngày truyền thống để kỷ niệm là ngày 19-11-1955, ngày có quyết định thành lập trường của chính quyền cũ.

Không chạy theo thành tích

Năm 1994, sau khi nghỉ hưu, ông Điện đã cùng một số người bạn bàn bạc, lập kế hoạch để sáng lập nên Trường Đại học dân lập Lạc Hồng và được Thủ tướng Chính phủ quyết định vào tháng 9 năm 1997. Cũng ngay năm ấy, ông và một số đồng nghiệp xin thành lập một trường trung học với mong ước được tự mình giải đáp điều trăn trở về nguyên nhân “tại sao lớp trẻ khi vào học đại học cũng như sau đó vào đời lại ít năng động, ít tự quản tự lập”. Trường Trung học Phổ thông dân lập Việt Thanh ra đời. Ông được tín nhiệm giao đứng cương vị hiệu trưởng cả hai trường. Nhưng đối với Đại học Lạc Hồng, chỉ sau một nhiệm kỳ 5 năm, khi đưa được trường vào nền nếp, vì nhiều lý do nên ông quyết định rút lui để “làm một cái gì đó của riêng mình, theo đúng ý mình”. Ông quay về xây dựng Trường THCS &THPT Việt Thanh (tư thục). Ông muốn mở trường để dạy cho học sinh theo cách của mình. Đương nhiên là về giáo khoa giáo trình phải theo những quy định chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhưng về phương châm, chiến lược đào tạo thì sẽ theo cách riêng theo đúng mục tiêu giáo dục mà Luật Giáo dục đề ra.

Không phải ngẫu nhiên mà Trường THCS & THPT Việt Thanh đặt khẩu hiệu “Dạy làm người trước khi dạy chữ” mà không phải là “Tiên học lễ, hậu học văn” như các trường khác. Ông bảo đấy là cụ thể hóa, Việt hóa cho học sinh và phụ huynh dễ tiếp nhận hơn. Ông ý thức sâu sắc rằng, một em học sinh nếu ý thức được mình là một con người thực sự, thì sẽ có ý thức về tương lai cuộc đời, từ đó sẽ có ý thức về việc học, việc rèn luyện, chắc chắn các em sẽ tự giác thực hiện với tinh thần tự chủ cuộc đời mình. Ông tin rằng mọi việc trên đời đều “hữu xạ tự nhiên hương”, nhà trường cũng vậy, không nên phô trương hình thức mà phải cố gắng làm những gì thiết thực. Vào các dịp khai giảng, ông vẫn thường nói với các phụ huynh rằng, ở Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 70 trường tư thục, hãy đi tìm hiểu hết để biết tiêu chí riêng của từng trường, còn nếu đã chọn Việt Thanh thì phải có hiểu biết về Việt Thanh, hiểu về những tiêu chí trong giáo dục đào tạo của Việt Thanh.

Với tiêu chí “Chất lượng - Trung thực – Hội nhập”, mỗi năm Việt Thanh tuyển sinh khoảng 800 học sinh. Ông Điện chủ trương không phân biệt đầu vào, không đưa ra yêu cầu đầu vào quá cao. Vì như thế những em học yếu hơn sẽ mất quyền được học, họ sẽ học ở đâu? Trong quá trình học, Việt Thanh cũng không tổ chức thi vượt rào để thanh lọc, loại bớt học sinh giữa chừng. Đây là điều mà nhiều trường thường làm để “tinh tuyển” chất lượng đầu ra. Điều ông Điện quan tâm là học sinh dù học giỏi hay học chưa tốt nhưng phải có ý thức học, phải cố gắng cao nhất, đổi mới về phương pháp để tạo cho các em ý thức đó. Việt Thanh cũng không chạy theo phần trăm khá giỏi, mà quan trọng là thực chất, trung thực với kết quả đạt được.

Với giáo viên, ông Điện không đồng ý với tình trạng giáo viên chạy “sô” như ca sĩ nên đã quy định giáo viên của Việt Thanh không được đi dạy ngoài. Giáo viên làm cho ông tuy thu nhập không cao bằng giáo viên chạy “sô” nhưng có thu nhập ổn định, số tiết cũng không cao, bù lại trường yêu cầu giáo viên phải chịu trách nhiệm kèm cặp từng học sinh, theo dõi sự tiến bộ của từng em theo năng lực của chính em đó.

Một trong những điểm được ông Điện chú trọng xây dựng cho ngôi trường của mình theo tôn chỉ học làm người trước khi học chữ đó là rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Câu hỏi “học để làm gì” luôn được đặt ra. Một trong những điểm yếu của học sinh phổ thông hiện nay ông cho rằng đó là thiếu tính năng động, tính chủ động trong cuộc sống, vì thế cần phải bồi dưỡng, kích thích các em sáng tạo và tăng khả năng ứng phó với mọi tình huống trong cuộc sống. Ông vẫn tâm huyết với câu: “Người thầy tồi là người thầy đem chân lý đến cho học trò, còn người thầy giỏi là người cùng học trò đi tìm chân lý”.

Website của trường Việt Thanh có mục “Tổ quốc trên hết” và mục “Tiếng nói học đường” mà nhiều trường khác không có. Ông Điện cũng đề ra yêu cầu, các phòng thí nghiệm của nhà trường phải hoạt động hết công suất, đồng nghĩa với việc giáo viên phải tích cực hướng dẫn học sinh thực hành, và thực hành một cách nghiêm túc.

Theo ông, làm giáo dục theo đúng mục tiêu là việc cực kỳ khó. Ông đọc tôi nghe mấy câu thơ tự đáy lòng: “Phải chăng hạnh phúc phải vượt qua những cung đường vất vả/ Ta đâu phải là Nữ Oa mà đội đá vá trời…”.

Luôn tâm niệm làm điều gì cũng vì thực chất chứ không vì những danh hiệu nên nếu bảo ông kể về những phần thưởng, những danh hiệu của cá nhân hay của Trường THCS & THPT Việt Thanh hiện tại thì hầu như… không có.

Giải thích về cái tên Việt Thanh, ông Đoàn Văn Điện cho biết, lúc đầu ông có nguyện vọng muốn lấy lại tên ngôi trường mà Bác Hồ đã từng dạy học tại Phan Thiết là trường Dục Thanh để đặt tên cho ngôi trường của mình. Nhưng sau đó khi xin giấy phép, Thành phố trả lời cái tên ấy là của một ngôi trường đã đi vào lịch sử, không nên dùng lại. Vì vậy, ông đã chọn cái tên Việt Thanh, đơn giản là thanh niên nước Việt với ý muốn nhấn đến sự tự tôn, ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc của thế hệ thanh niên hiện nay.

Bài và ảnh: Dương Tử Thành