Được Bác Hồ đặt tên

Một ngày cuối tháng 5-1963, đồng chí Nguyễn Quang Việt, Thứ trưởng Bộ Công an, Chính ủy Công an nhân dân vũ trang gọi tôi lên, nói: “Bác Hồ đọc tờ “Tin Công an vũ trang” (tiền thân báo Biên Phòng hiện nay-TG) in chuyện cậu viết về liệt sĩ Trần Văn Thọ, Bác muốn nghe thêm những mẩu chuyện về liệt sĩ. Cậu kể thật tỉ mỉ cho mình nghe để mình lên báo cáo với Bác”. Anh Việt nhìn tôi, nói nhỏ nhẹ, tình cảm: “Lẽ ra cậu được làm việc này. Nhưng vì cậu chưa phải đảng viên và quân hàm còn thấp nên mình phải làm thay, để chịu trách nhiệm với Bác”.

Lúc ấy tôi mới là thượng sĩ. Vào đầu năm 1963, Cục Chính trị giao cho tôi lên vùng biên giới Leng Xu Sìn, Apa Chải của huyện Mường Tè-Lai Châu, sưu tầm tài liệu viết về tấm gương liệt sĩ Trần Văn Thọ để làm điển hình tiêu biểu cho lực lượng Công an nhân dân vũ trang. Tôi đã sống ở Hà Nhì 4 tháng để làm việc này. Tôi kể lại cặn kẽ những chi tiết anh Thọ sống “ba cùng” với bà con. Anh xây dựng cơ sở chính quyền, anh vận động dân bản bỏ nghiện hút, bỏ trồng thuốc phiện... Anh hy sinh sau trận tiễu phỉ, bà con đã để mộ phần anh trên đỉnh núi Leng Xu Sìn. Nơi đó người Hà Nhì gọi là hòn ngọc giữa miệng rồng...

Cuối buổi làm việc, Chính ủy Nguyễn Quang Việt nói với tôi rằng, trong ngày thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang (3-3-1959), Bộ tư lệnh được Bác Hồ gọi lên báo cáo công tác. Bộ tư lệnh có xin Bác ra một tờ tin để nhằm thông báo tin tức, cổ vũ các chiến sĩ nơi biên cương, hải đảo tận tụy với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tờ thông tin xin được lấy tên là “Bảo an” hoặc “Bảo vệ”. Ngồi im lặng một lát, Bác Hồ nói: Bảo an, Bảo vệ nghe cũng được. Nhưng có điều trong những năm kháng chiến, giặc Pháp lập ra đội quân ngụy và gọi chúng là lính bảo an, bảo vệ. Chúng đã gây ra nhiều tội ác. Nhân dân ta đang có ấn tượng xấu với những cái tên gọi ấy. Các chú cứ dùng từ “Tin Công an vũ trang” là được. Anh Việt cười vui: “Từ đấy chúng ta mới có tờ tin mà các cậu đang làm đấy!”.

“Gửi cho Bác mỗi số một tờ”

Tờ “Tin Công an vũ trang” những số cuối năm 1959, phát hành theo đường công văn gửi về các đơn vị. Trung đoàn 600 là đội cận vệ bảo vệ Phủ Chủ tịch, ở gần nên tờ tin đến sớm nhất. Một lần phát hành tờ tin được hai hôm thì đồng chí chỉ huy Trung đoàn 600 lên báo cáo với Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang: Thấy các chiến sĩ bảo vệ đọc tờ tin, Bác cầm lật từng trang xem rồi bảo: “Được đấy! Các chú nói với các anh ở Bộ tư lệnh gửi cho Bác mỗi số một tờ”. Ôi, tờ tin bé nhỏ khổ 12 x 30 xăng-ti-mét in ấn đơn sơ (rô-nê-ô) mà được Bác Hồ quan tâm. Còn niềm vui nào hơn thế! Ban biên tập chúng tôi phấn khởi lắm. Gọi là Ban biên tập, nhưng lúc ấy chỉ có ba người: Anh Tô Ân, Đại úy phụ trách; anh Nguyễn Thân, Thiếu úy và tôi, Hạ sĩ từ Đồn Biên phòng Cầu Treo-Nước Sốt (Hà Tĩnh) về. Anh Thân được giao một tảng đá to bằng mặt khay đựng ấm chén để in li tô. Còn tôi giúp việc in và tóm tắt tin từ các bản báo cáo của địa phương. Được sự khích lệ quý báu của Bác Hồ, chúng tôi càng hăng say làm việc. Sau đó, tờ “Tin Công an vũ trang” được Cục Chính trị Bộ tư lệnh cho in bằng ti-pô 4 trang khổ 25 x 35. Số báo kỳ ấy in xong, trước lúc phát hành, anh Tô Ân giao cho tôi chọn hai tờ đóng gói gửi Trung đoàn 600 chuyển lên kính biếu Bác. Hôm sau, Bác gửi xuống trả lại một tờ và viết lên đầu trang nhất “Nên gửi một số. Còn một số nữa gửi các chiến sĩ”!

Được Bác chữa thơ

Tờ “Tin Công an vũ trang” từ năm 1962 được in màu xanh giống màu non xanh nước biếc trên quân hàm chiến sĩ biên phòng. Thể tài được mở rộng hơn. Một lần tờ tin có in bài thơ: “Đường tuần tra mùa xuân” của Binh nhất Minh Lam. Anh là chiến sĩ ở trạm tiền tiêu Đồn Biên phòng Y Tý-Bát Xát (Lào Cai). Bài thơ ấy có ba đoạn 12 câu. Trong ba đoạn thơ, mỗi đoạn có câu đầu “Ngựa dừng chân lưng đèo… Ngựa dừng bên suối vắng… Ngựa dừng trên bản xa”… In xong, tôi đạp xe chuyển tờ tin lên Trung đoàn 600 để kính chuyển lên Bác. Sáng mồng ba Tết, ngày làm việc đầu năm, chúng tôi nhận được tờ tin đó từ Trung đoàn 600 gửi xuống. Bài thơ “Đường tuần tra mùa xuân” được Bác đánh dấu và ghi dưới các chữ “Dừng chân… Dừng suối… Dừng trên…”. Bác viết vào cạnh bài thơ hai câu:

Dừng chân, dừng suối, lại dừng trên...

Hỏi người thi sĩ có nên?”.

 

Giải quyết rồi báo cáo Bác biết...

Một lần khác, Bác lại gửi xuống tờ tin mới phát hành. Trên trang đầu Bác viết dòng chữ: “Chú Kiệt giải quyết việc này thế nào rồi. Báo cáo Bác biết”. Vì trong tờ tin đó in bài điều tra do anh Mai Thanh viết về việc mất đoàn kết nội bộ ở Đoàn Thanh Xuyên. Dưới những dòng có sự việc nổi cộm, Bác đều gạch chân. Ngày ấy lực lượng Công an nhân dân vũ trang có Trung đoàn 12 (Đoàn Thanh Xuyên) là đơn vị tinh nhuệ, trang bị gọn, cơ động nhanh, ứng chiến kịp thời những điểm nóng mất an ninh, trật tự, hoặc có biệt kích, gián điệp xâm nhập. Lúc ấy Trung đoàn 12 có nảy sinh việc thắc mắc nhau về phân công nhiệm vụ, đề bạt cán bộ…

Nhận được chỉ thị của Bác, Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang cử đồng chí Huỳnh Thủ, Tham mưu trưởng cùng các cơ quan liên quan đến Đoàn Thanh Xuyên tổ chức họp kiểm điểm và tìm ra phương hướng khắc phục. Cán bộ, chiến sĩ đã viết quyết tâm thư hứa với Bác: Củng cố đoàn kết nội bộ và quyết lập chiến công dâng lên Bác. Từ đó, khí thế mới đã bừng lên ở Đoàn Thanh Xuyên. Các chiến sĩ rất dũng cảm chiến đấu trong các trận truy lùng tiêu diệt nhanh gọn, bắt sống các toán biệt kích từ đường không nhảy dù xuống Nghệ An, Thanh Hóa, Lai Châu, Bắc Giang, Hòa Bình… hoặc từ đường biển xâm nhập vào Quảng Ninh, Móng Cái… Đoàn Thanh Xuyên được tuyên dương Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân và nhiều chiến sĩ được tặng thưởng huân chương…

 

Viết như thế là có hại

Trong thập kỷ sáu mươi của thế kỷ trước, bọn Mỹ-ngụy đã tung ra miền Bắc nhiều toán gián điệp biệt kích. Những năm ấy, các đơn vị Công an nhân dân vũ trang đã có nhiều trận chiến đấu quyết liệt và lập chiến công. Trận đánh ở vùng núi miền Tây Quảng Bình do Trung tá Trần Xuân Giá chỉ huy, đội trưởng Cương cùng các chiến sĩ truy lùng, bao vây và dũng mãnh xông vào hang ổ toán biệt kích. Các chiến sĩ đã chứng kiến một hiện trường khủng khiếp. Bị ta vây hãm, bọn giặc đã xả thịt nhau để ăn… Tôi viết chuyện đó lên tờ tin, rồi viết thành tập truyện “Bầy cọp núi”.

Sách được xuất bản, tôi cứ tưởng những chuyện ly kỳ ấy sẽ gây được sự hấp dẫn người đọc. Không ngờ Bác Hồ gọi chỉ huy Trung đoàn 600 lên, dạy rằng không nên viết những chuyện ấy lên báo. Người viết cần chọn lọc những điều có ích cho người đọc. Viết như thế là có hại, làm cho người ta hiểu lầm người Việt Nam... Dù đó chỉ là vài kẻ bị bọn giặc nhồi sọ.

Lời dạy của Bác đã thành bài học sâu sắc cho Ban biên tập chúng tôi: “Người viết cần chọn lọc những điều có ích cho người đọc”. Điều ấy đã trở thành tiêu chí hàng đầu của chúng tôi trong công việc làm báo, viết văn…

Nhà văn TRẦN HỮU TÒNG