Tòa án chưa khách quan

Căn nhà tại số 679 Đoàn Văn Bơ, phường 18, quận 4, TP Hồ Chí Minh do quân đội cấp cho ông Nguyễn Bá Đức năm 1991. Tháng 1-2009, vợ chồng ông đã ký hợp đồng thế chấp giấy tờ nhà vay Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Đông Việt Nam (OCB) quận 5 với giá trị 100 triệu đồng. Tháng 1-2010, đến hạn, vợ chồng ông Đức chỉ trả được 40 triệu đồng. Theo sự giới thiệu của nhân viên ngân hàng (bà Oanh), bà Nguyễn Thị Thu An đã hứa cho vợ chồng ông Đức vay 60 triệu đồng để trả nợ. Sau đó, chưa được sự đồng ý của vợ chồng ông Đức nhưng bà An đã lấy được giấy tờ chủ quyền nhà ra khỏi ngân hàng. Sau đó, bà An yêu cầu vợ chồng ông Đức ra công chứng ký hợp đồng thế chấp nhà để vay tiền. Đầu năm 2010, khi có đủ tiền, vợ chồng ông Đức tìm đến nhà bà An để trả nợ, nhưng bà An đã bán nhà chuyển đi nơi khác. Tháng 9-2013, bà Nguyễn Thị Lệ Vy, một người không quen biết, đến yêu cầu vợ chồng ông Đức trả nhà. Tìm hiểu lại sự việc, ông Đức mới biết hợp đồng mà vợ chồng ông đã ký với bà An là hợp đồng ủy quyền bán nhà, chứ không phải là hợp đồng thế chấp vay. Sau khi ký một ngày, bà An đã chuyển nhượng căn nhà cho ông Nguyễn Văn Trung và bà Đặng Thị Thanh Nhâm. Sau đó, ông Trung và bà Nhâm bán cho bà Nguyễn Thị Lê, rồi bà Lê làm hợp đồng tặng bà Vy. Biết mình bị lừa, ông Đức đã gửi rất nhiều đơn tố cáo bà An nhưng chưa được giải quyết thỏa đáng.

Ngày 17-4-2014, bà Vy khởi kiện vợ chồng ông Đức phải thanh toán tiền thuê nhà và trả căn nhà số 679 Đoàn Văn Bơ cho mình. Tại Bản án sơ thẩm số 183/2014/DS-ST ngày 30-9-2014 của TAND quận 4 và tại Bản án phúc thẩm số 99/2015/DS-PT ngày 21-1-2015 của TAND TP Hồ Chí Minh đều tuyên vợ chồng ông Đức phải giao trả căn nhà cho bà Vy.

Căn nhà 679 Đoàn Văn Bơ, phường 18 (quận 4, TP Hồ Chí Minh). 

Nhiều mâu thuẫn

Theo đơn khởi kiện đề ngày 17-4-2014 và các lời khai của bà Vy thì bà yêu cầu hủy hợp đồng thuê nhà và đòi lại căn nhà 679 Đoàn Văn Bơ. Thế nhưng, căn cứ vào hồ sơ vụ án thì không có bất kỳ hợp đồng thuê nhà nào mà chỉ có giao dịch thuê nhà do bà Vy tự dẫn ra với giá thuê là 3 triệu đồng/tháng, nhưng chứng cứ này lại được tòa án chấp nhận để từ đó xác định vụ án là “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà”.

Điều 492 Bộ luật Dân sự quy định: “Hợp đồng thuê nhà ở phải được lập thành văn bản, nếu thời hạn thuê từ 6 tháng trở lên thì phải có công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký…”. Bà Vy cũng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ về việc giao nhận tiền thuê nhà hằng tháng. Thực tế, giữa vợ chồng ông Đức và bà Vy không hề quen biết, nên nếu có việc thuê nhà thì không thể thiếu các giấy tờ này được!

Mặt khác, theo biên bản lấy lời khai ngày 21-8-2014 của ông Trung thì năm 2008, vợ chồng ông có cho bà An vay 650 triệu đồng, bà An có thế chấp căn nhà 679 Đoàn Văn Bơ (có hợp đồng vay và thế chấp có công chứng). Sau đó, bà An không trả được nợ gốc và lãi nên ông bà yêu cầu bà An ký hợp đồng chuyển nhượng. Đến 22-4-2014, bà An mới trả đủ 650 triệu đồng, lẽ ra khi đó ông Trung phải làm thủ tục chuyển nhượng căn nhà cho bà An, nhưng theo yêu cầu của bà An, vợ chồng ông đã ra công chứng chuyển nhượng căn nhà cho bà Lê mà không nhận một khoản tiền bán nhà nào từ bà Lê và cũng không nhận thêm tiền từ bà An.

Như vậy, việc mua bán nhà giữa vợ chồng ông Trung và bà An không hề diễn ra. Việc bà An vay tiền vợ chồng ông Trung và dùng căn nhà làm tài sản bảo đảm là có. Thế nhưng, khi bà An trả hết tiền cho ông Trung thì hợp đồng đã chấm dứt trên thực tế và hoàn toàn không có việc mua bán căn nhà cũng như giao nhận tiền giữa ông Trung và bà Lê. Toàn bộ hợp đồng nêu trên được lập ra để che giấu việc vay tiền.

Lời khai của ông Trung phù hợp với toàn bộ diễn biến sự việc. Bởi từ thời điểm mua nhà (30-1-2010) đến thời điểm bán nhà (29-5-2012) là 29 tháng, vợ chồng ông Trung không hề đến căn nhà số 679 Đoàn Văn Bơ để xem xét, trông nom căn nhà mà mình đã bỏ ra một khoản tiền lớn để mua. Hơn nữa còn để cho gia đình ông Đức ở suốt 2 năm mà không hề đòi hỏi họ thực hiện bất cứ nghĩa vụ tài chính nào.

Điều 129 Bộ luật Dân sự quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu. Khi hợp đồng vô hiệu “không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên tại thời điểm xác lập”, “các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận…”. Căn cứ vào điều luật này thì hợp đồng tặng cho giữa bà Lê và bà Vy cũng không có giá trị. Bà Vy không có quyền sở hữu đối với căn nhà 679 Đoàn Văn Bơ. Bên cạnh đó, việc 2 cấp tòa đều không triệu tập ông Đỗ Xuân Thành, chồng bà Vy (nguyên đơn) hay bà An, ông Trung, bà Nhâm, bà Lê tham gia vào vụ án với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là vi phạm thủ tục tố tụng.

Trao đổi với chúng tôi, bà Lê Thị Hằng, thẩm phán TAND quận 4, xét xử sơ thẩm vụ án, khẳng định: “Bản án tôi xử có kháng cáo và TAND thành phố đã xét xử phúc thẩm, hiện đang trong giai đoạn thi hành án. Tôi không có quyền hay trách nhiệm gì giải thích về bản án đó”. Còn bà Nguyễn Thị Ngọc Ly, thẩm phán TAND TP Hồ Chí Minh là người trực tiếp xét xử phúc thẩm vụ án cho rằng: “Theo quy định, khi có án phúc thẩm, các đương sự có quyền khiếu nại lên tòa tối cao”.

Ông Nguyễn Bá Đức chia sẻ: “Chỉ vì quá tin người cùng với những sai phạm nghiêm trọng của tòa án 2 cấp đã đẩy gia đình tôi đến lúc không còn chỗ nương thân. Gia đình tôi thiết tha đề nghị Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm, Tòa án Nhân dân Tối cao xét xử giám đốc thẩm và cơ quan có liên quan bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chúng tôi”.

Bài và ảnh: KIM DUNG