Ảnh minh hoạ. Nguồn: Internet

Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước là chiến trường ác liệt, xa hậu phương, có nhiều khó khăn, thiếu thốn về lương thực thực phẩm, thuốc men. Nhưng bù lại, Tây Nguyên được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho điệp trùng những cánh rừng xanh tươi bát ngát. Rừng Tây Nguyên không chỉ là “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” mà còn sản sinh ra nhiều loại rau, củ, quả giúp bộ đội ta vượt qua khó khăn, bám trụ chiến đấu giành thắng lợi. Đơn vị tôi vào Tây Nguyên đầu năm 1972, nhưng ngay từ những ngày đầu chúng tôi đã phải nếm trải cảnh “đói cơm, nhạt muối”. Đáng nhớ nhất là những ngày đầu tháng 5, khi chiến dịch Xuân-hè 1972 bước vào giai đoạn quyết liệt, chúng tôi đang ngày đêm giành giật với địch từng mét hào, góc phố ở thị xã Kon Tum thì nguồn lương thực thực phẩm cạn kiệt do mưa xuống không vận chuyển được. Chúng tôi phải kiếm rau rừng ăn thêm cho đỡ đói.

Rau rừng Tây Nguyên có rất nhiều loại ăn được, trong đó có một số loại phổ biến, có tác dụng tốt đến việc nuôi dưỡng bộ đội. Trước hết phải kể đến là rau môn thục, loại cây có hình dáng giống như cây lan ý, thường mọc thành bãi dày ở các khe, suối đất cạn, bộ đội ta nhổ về rửa sạch, bỏ rễ, thái cả lá lẫn dọc và củ cho muối, mỳ chính vào ninh nhừ làm canh rất dễ ăn; môn thục có chất bột nên không chỉ làm canh ăn rất tốt mà những khi thiếu gạo, bộ đội ta còn ăn thay cơm. Rau tàu bay mọc nhiều ven bờ suối, nương rẫy, loại rau này thường để nấu canh có mùi hăng hắc như Bác Hồ đã từng nói vui khi ăn loại rau này ở Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp “Rau tàu bay nên ăn có mùi dầu xăng!”. Rau sam đá mọc nhiều trên vách đá, loại rau này nấu với cua suối ngọt hơn cả canh rau đay nấu với cua đồng. Rau vòi voi là loại cây mọc sát mặt đất, có thân hình mềm như hình vòi voi, có một đến hai lá to bằng bàn tay chụm thường mọc ở nơi khô ráo, khi hái về bộ đội ta phải kỳ rửa từng lá vì mặt dưới của lá thường dính nhiều đất, xào hoặc nấu canh ăn có vị ngọt và nhớt như mồng tơi. Một số loại khác như rau ngót rừng, lá lốt rừng, rau dớn thường mọc lẫn với các loại cây rừng, rau tóc tiên, rau rệu, rau càng cua thường mọc ở bờ suối đất nấu canh ăn mát mà cũng rất ngon…

Tây Nguyên cũng rất sẵn măng rừng. Măng rừng Tây Nguyên có nhiều loại và mọc nhiều về mùa mưa như: Măng le, măng giang, măng nứa, măng lồ ô, măng tre… nhưng nhiều và ngon hơn cả là măng le và măng giang. Măng luộc mà chấm muối ớt, ớt gặp măng càng cay, rất hợp với khẩu vị của lính ta. Năm 1969, trong một cuộc thi nấu ăn của Trung đoàn Plei-me, các chiến sĩ Đại đội 2 còn có món giò măng độc đáo. Nguyên liệu chính là măng, bột sắn, mộc nhĩ sau đó trộn với bột sắn đang độ chín tới với tỉ lệ thích hợp rồi lấy lá chuối rừng bó lại như bó giò, xong cho vào túi ni lông buộc kín thả xuống suối đá chỗ nước sâu. Sau một đêm vớt lên thái thành khoanh, trông chẳng khác gì dò hoa ngày tết.

Ngoài những loại rau, củ, rừng Tây Nguyên còn có những loại cây cho hoa, quả ăn được như chuối rừng, quả bứa ăn chín và nấu canh chua đều ngon; quả vải rừng ngọt, hơi chua giải khát tốt; hạt dẻ rừng rang chín ăn bùi và thơm như lạc… Thông thường ở rừng những cây có quả ăn được thường mọc lẫn với những cây dại cùng loại. Ví dụ cây bứa khôn thường mọc lẫn với cây bứa dại. Nếu không biết mà ăn phải bứa dại thì nôn đến mật xanh mật vàng và rất nguy hiểm. Hay cây rau khắng (còn gọi là cây mỳ chính vì nấu canh ăn ngọt như mỳ chính mà không cần cho mỳ chính) cũng thường mọc cạnh cây khắng dại. Tôi còn nhớ, trên đường hành quân vào chiến trường Tây Nguyên, đến trạm giao liên thuộc địa đầu tỉnh Kon Tum, được đơn vị đến trước thông báo có cây “mỳ chính” nấu canh ăn rất ngon nên vừa đặt ba lô, chúng tôi đã cắt cử người đi lấy về cải thiện, quả thực canh rau “mỳ chính” ăn rất mát và ngọt, nhưng đêm đó cả đại đội bị “tào tháo” đuổi, vì chúng tôi đã lấy nhầm phải rau khắng dại. Tôi còn có một kỷ niệm khó quên: Khoảng tháng 9-1972, đơn vị chúng tôi làm nhiệm vụ chốt cắt đường 14 ở khu vực Nam Chư Prông (Gia Lai) ngày nay. Một hôm tôi cùng với trung đội phó Lê Văn Vượng đi kiểm tra khu vực bố trí trận địa. Khi đi qua một bãi tráng nhỏ, tôi chợt nhìn thấy một dây mướp leo trên một thân cây đã chết cháy, có khá nhiều quả xanh non, ngắn như những quả chuối to. Tôi mừng rỡ kêu lên: Mướp! Anh Vượng đi lên nhìn thấy cũng rất mừng. Thế là hôm nay chúng tôi sẽ có một bữa canh mướp tuyệt trần. Buổi chiều về, cả tiểu đội quyết định còn một hộp thịt lợn 3 lạng (chiến lợi phẩm) mang ra nấu mướp. Nồi canh mướp thơm ngào ngạt bưng ra, mỗi người đều nhanh chóng múc một bát canh ăn trước. Câu Tiến (quê ở Thanh Ba-Vĩnh Phú) vốn nhanh nhẹn múc trước, nhưng vừa húp miếng canh vào miệng đã lè lưỡi lắc đầu rồi chạy ra ngoài nhổ phì phì. Thì ra, tôi đã lấy phải mướp dại, ăn đắng như  mật cá mè…

Ngày ấy đã lùi xa. Nước nhà thống nhất đã hơn 30 năm, đời sống của bộ đội và nhân dân ta đã có nhiều cải thiện. Bữa ăn hàng ngày của nhiều gia đình đã có thịt, cá và nhất là có nhiều loại rau ngon-một nhu cầu không thể thiếu của con người. Với tôi, cứ mỗi lần gắp những cọng rau non xanh, tôi lại bồi hồi nhớ đến rau rừng Tây Nguyên.

HÙNG TẤN