QĐND - Được coi như một báu vật có giá trị lớn về mặt văn hóa và tinh thần của người Khơ -me vùng Nam Bộ, nghệ thuật viết khắc họa kinh lá có tuổi đời hàng trăm năm. Tuy nhiên, do việc chép kinh là cả một kỳ công nên đến truyền nhân đời thứ 9 hiện nay, kinh lá đang có nguy cơ bị thất truyền. Về vùng Bảy Núi (An Giang) chúng tôi tìm gặp người cuối cùng và cũng là duy nhất ở Việt Nam có thể viết kinh lá bằng tiếng Khơ -me. Đó là hòa thượng Chau Ty ở chùa Soài So (xã Núi Tô, huyện Tri Tôn -An Giang)
Báu vật trên lá buông
Chúng tôi đến chùa khi mặt trời đã lên cao. Bắt đầu từ huyện lộ chạy vào, hai hàng cây thốt nốt đang mùa quả chín uốn lượn bao quanh càng làm cho khung cảnh ngôi chùa thêm phần cổ kính và thơ mộng. Đón tiếp chúng tôi, hòa thượng Chau Ty, chủ trì chùa tỏ ra vô cùng vui mừng và sai các đệ tử đi pha nước thốt nốt mời khách. Sau khi biết ý định của hai người khách phương xa, hòa thượng không ngần ngại dẫn chúng tôi vào thăm gian phòng lưu trữ kinh thư và sách phật của chùa. Cẩn thận mở ngăn tủ kính, lấy bộ kinh lá, lần giở từng lớp vải thêu bọc cẩn thận cho chúng tôi xem, hòa thượng tâm sự: “Tôi năm nay đã gần 70 tuổi, cả đời chỉ còn bộ kinh lá này tâm huyết mà thôi. Đây là những điều được các vị sư tổ đời trước truyền lại để răn dạy cháu con, đệ tử và những người của dân tộc Khơ -me sống sao cho tốt đẹp, làm điều hay lẽ phải và biết ơn các đấng sinh thành. Mặc dù được coi là báu vật của dân tộc Khơ -me nhưng kinh lá lại chỉ ghi chép những điều hết sức giản dị, dạy đời sau những điều tốt đẹp chứ không có gì thâm sâu khó hiểu”.
 |
Hòa thượng Chau Ty, người cuối cùng và duy nhất ở Việt Nam hiện nay có thể viết kinh lá.
|
Hòa thượng Chau Ty ngước mắt nhìn lên đỉnh núi phía xa xa rồi nhẹ nhàng kể: “Hồi tôi còn trẻ, chùa Soài So này còn nằm ở lưng chừng đỉnh núi Cô Tô, một trong 7 ngọn núi danh tiếng vùng Thất Sơn (An Giang) này. Tuy nhiên, khoảng thập niên 1960, phần do chiến tranh, phần do muốn cho hậu thế dễ dàng tiếp cận với đạo Phật nên các sư tổ ở chùa Soài So đã di chuyển xuống đây, giữa ấp dân cư người Khơ -me. Bắt đầu khi về ngôi chùa mới, tôi mới được sư tổ truyền lại tinh hoa của nghề viết kinh lá. Theo tiếng Khơ -me, kinh lá có nghĩa là S -lấc-rích, một kiểu viết khắc họa rất tinh xảo và tỉ mỉ trên Sa -T-ra (cây buông)”.
Mặc dù chỉ ghi lại những điều giản đơn của Phật pháp để truyền cho hậu thế nhưng công việc chuẩn bị và viết được kinh trên lá buông lại vô cùng khó khăn và rất cầu kỳ nếu không muốn nói là vô cùng gian lao, phải những ai tinh thông Phật pháp, có trí lực phi thường mới làm được. Có lẽ, chính vì nguyên nhân này mà mỗi đời, các sư tổ của người Khơ -me chỉ truyền lại bí kíp viết chữ kinh lá cho duy nhất một đệ tử đủ tài đức và Phật hạnh mà thôi. Cũng chính vì nguyên nhân này mà kinh lá rất ít được phổ biến ra ngoài mà chỉ được đọc cho đồng bào dân tộc Khơ -me nghe vào những ngày trọng đại như Tết cổ truyền Chol Chnam Thmây hay lễ Dolta mà thôi.
Kể về quá trình viết kinh lá, hòa thượng Chau Ty cho hay, nhìn bên ngoài, kinh lá có vẻ khá đơn sơ và thô mộc nhưng để viết được một bộ kinh trên lá, phải tốn rất nhiều công phu. Đầu tiên là việc chuẩn bị lá buông, một loại cây gần giống cây thốt nốt mà trước kia từng có ở vùng Bảy Núi này nhưng nay thì không còn nữa. Tuy nhiên, không phải bất kỳ lá buông nào chặt trên cây xuống cũng có thể dùng để viết chữ được bởi lá buông thường có màu xanh nâu, màu xám đá nên không thuận tiện cho việc chép kinh. Thế nên, muốn chọn lá chép kinh thì phải chọn từ lúc lá còn non, mới mọc khỏi thân cây. Những chiếc lá được nhắm để viết kinh sẽ được che chắn cẩn thận và chờ cho tới lúc lá bắt đầu già. Khi ấy, sau khi chặt xuống, lá buông được bào nhẵn, ngâm trong một số loại dung dịch của các nhựa cây để lá không bị héo, không bị ẩm mốc và tăng độ bền với thời gian. Khi có lá ưng ý, việc chép kinh cũng vô cùng khó khăn chứ không đơn giản như người ta viết trên giấy bởi bút dùng phải là loại chuyên dụng có tên Đéc -Cha. Đây là loại bút gỗ có gắn mẩu thép nhọn ở đầu như mũi kim để khắc chữ xuống thân lá. Khi khắc phải luôn đều tay để nét chữ không nông, không sâu, đều đặn và thẳng hàng.
Sau khi viết theo kiểu khắc họa này xong, người ta phải dùng loại bột lấy từ cây mặc nưa (một loại cây cũng thường xuất hiện ở vùng Bảy Núi) để bôi lên lá. Sau đó, bột mặc nưa sẽ ngấm vào lá buông, hiện lên những chữ viết như chúng ta thấy. Chữ viết gần như chữ Nho, nghĩa là từ trái qua phải, từ trên xuống dưới. Mỗi tấm lá buông viết khoảng 5, 6 dòng, mỗi dòng trung bình 23 chữ. Vì thế, kinh viết trên lá buông phải là những điều căn bản, sâu sắc tinh tế và có giá trị cho hậu thế người Khơ -me. Nói thì ngắn gọn vậy chứ để hoàn thành một bộ kinh lá, người ta mất cả năm trời chứ không ít.
Do tính chất cầu kỳ, tỉ mỉ và rất khó của kinh lá mà hòa thượng Chau Ty hiện nay là người duy nhất ở Việt Nam có thể viết được kinh trên lá buông bằng tiếng Khơ -me truyền thống của dân tộc mình. Tuy nhiên, với ông đây không phải là một điều gì đáng hãnh diện mà thực chất lại là nỗi buồn, nỗi buồn để tìm được đệ tử có thể kế thừa ông viết kinh lá như ông đã kế thừa từ 8 vị tiền nhân trước đây.
Mỏi mắt tìm truyền nhân
Những âu lo của hòa thượng Chau Ty là hoàn toàn có cơ sở bởi khi mà những người trẻ ở chùa cũng không đủ tâm và tài cũng như lòng kiên nhẫn để học cách viết khắc họa kinh lá. Hơn nữa, việc cây buông biến mất khỏi vùng Bảy Núi (gần như hoàn toàn trên lãnh thổ Việt Nam) này cũng là nguyên nhân lớn khiến việc tìm được chất liệu viết kinh trở nên khó khăn hơn bội phần. Trước đây ở quanh chân núi Cô Tô, người Khơ -me theo đạo Phật dòng Nam tông rất đông. Thực chất, không phải họ theo đạo mà đúng hơn là đạo Phật Nam tông chính là một phần cuộc sống, gắn liền các tập quán sinh hoạt của đồng bào. Tuy nhiên, do sự giao lưu văn hóa và thay đổi trong quan niệm sống, nên đến nay, kinh lá đã dần trở nên ít phổ biến trong đời sống người dân Khơ -me. Bằng chứng là việc trước đây, rất đông đệ tử muốn học thuật viết kinh lá và ai cũng miệt mài tu dưỡng thì nay, tìm được để tử theo học thuật viết kinh lá là rất khó. Đa phần đều bỏ dở giữa chừng vì không đủ lòng kiên nhẫn và đức độ.
Hiện nay, tại vùng Bảy Núi có khoảng hơn 100 bộ kinh lá nằm rải rác ở một số chùa lớn của người Khơ -me thuộc thị trấn Tri Tôn, xã Núi Tô… (huyện Tri Tôn -An Giang) có tuổi đời từ khoảng 120 năm trở lại. Tuy nhiên, hầu hết những bộ kinh lá ấy đều đang trong quá trình hư hỏng bởi vật liệu là lá buông không thể tồn tại mãi với thời gian. Chính vì thế, việc tìm người kế tục để có thể chép lại những điều cổ nhân đã truyền lại và có thể ghi những điều mới của kinh pháp cho phù hợp với thực tế cuộc sống hiện đại nhằm truyền đạt tới cho người dân là vô cùng khó khăn. Điều này đã làm ông Chau Ty khá buồn phiền bởi do tuổi cao sức yếu, gần 10 năm nay ông cũng không còn đủ sức chép thêm bộ kinh lá nào nữa.
Nhìn những tấm lá buông mỏng mảnh như miếng gỗ ép với chi chít những con chữ trên tay vị hòa thượng già mà lòng chúng tôi như chùng xuống. Hơn 40 năm tâm huyết gìn giữ báu vật của dân tộc mình, có thể nói, hòa thượng Chau Ty đã không phụ lòng ủy thác của các bậc tiền nhân nhưng việc tìm được người tài đức kế tục đời thứ 10 của kinh lá là điều khó khăn nhất với những năm tháng cuối đời của ông.
Bài và ảnh: Đoàn Đại Trí