Thoát cảnh đi ở đợ

Nguyễn Hữu Oanh sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Thọ Khang, xã Yên Trung, huyện Yên Định, Thanh Hóa. Nhà nghèo, lại có tới 8 anh chị em nên mới 16 tuổi, Nguyễn Hữu Oanh đã phải đi ở cho nhà địa chủ ở xã Yên Phú để bớt cho gia đình một miệng ăn.

Đồng chí Nguyễn Hữu Oanh

Cuộc sống của kẻ đi ở đợ vào tuổi mới lớn thật cực nhọc, nhưng đã luyện cho Oanh có thể làm thành thạo mọi việc của người nông dân thực thụ như chăn trâu, cày bừa, nhổ mạ, gánh phân, gặt hái, lên rừng Đa Nẵm chặt củi, đốt than.

Gian khổ, cực nhọc là vậy nhưng chàng trai mới lớn rất buồn là không thể giúp được gì cho bố mẹ rồi các anh Trợ, Chậy, Cù, các chị Lăn, Lô, các em Hồng, Tình bớt đi nghèo đói. Những lúc buồn, Oanh lại tâm sự với bạn bè cùng thân phận con ở rằng số phận đã định, đành phải vậy thôi, biết đến bao giờ hết thân phận tôi đòi.

Nhưng rồi một sự kiện bất ngờ đến với Oanh. Buổi sáng một ngày tháng 9 năm 1951, anh vừa lùa đàn trâu của nhà ông chủ ra bãi sông Cầu Chày để chăn thì gặp Thực, một bạn cùng cảnh con ở, người làng Quảng, xã Yên Hùng. Thực rỉ tai Oanh: “Đi ở mãi cho địa chủ mi có chịu được không?”. Với tính nghĩ sao nói vậy, Oanh nhìn bạn quắc mắt, “Vì phận nghèo mà phải đi ở, ai thích nằm gầm chạn, ăn cơm thừa nhà người!”. Hỏi vậy, chứ Thực biết Oanh vẫn ngầm nung nấu ý chí có thời cơ thoát khỏi nơi khổ sai này. Vốn có hiểu biết hơn, Thực bảo: “Mi có dám đi đánh Tây không, có người của đơn vị bộ đội về huyện ta tuyển người đi tòng quân đấy!”.

Hồi đó Thanh Hóa là vùng tự do, các đơn vị bộ đội vẫn có những đợt hành quân qua làng, trú lại ít hôm huấn luyện rồi lại hành quân, nên Oanh cũng có chút hiểu biết về anh bộ đội và thích ngày nào đó được trong đoàn quân vác súng...

Được gợi đúng ý thích, Oanh nói ngay: “Đi bộ đội, được thoát cảnh làm con ở, sợ chi, chỉ lo mình trốn đi, ông chủ lấy cớ bắt vạ bố mẹ thôi!”. Hiểu nỗi lo của Oanh, Thực động viên: “Đừng sợ, nay ta đang phát động giảm tô, mi đi bộ đội là việc quan trọng, mọi việc ở nhà còn có Uỷ ban Hành chính kháng chiến, ông chủ không dám bắt vạ bố mẹ mi được!”. Nghe lời động viên của người bạn cùng cảnh ngộ, Nguyễn Hữu Oanh gửi lại đàn trâu cho người khác trông hộ và lẻn trốn đến nơi đơn vị bộ đội ghi tên tuyển quân.

Vinh dự là người lính của Đại đoàn Chiến thắng

Vào quân ngũ, Nguyễn Hữu Oanh được biên chế về đại đội 243, tiểu đoàn 11, trung đoàn 141, Đại đoàn 312. Vinh dự đầu tiên đến với anh là xong đợt huấn luyện gấp rút, anh được cùng đơn vị tham gia chiến dịch Nghĩa Lộ. Không lâu sau được cùng đại đội 243 tham gia chiến dịch Hòa Bình, chiến đấu diệt địch trên hướng Chẹ, Ba Vì. Là tân binh nhưng anh sớm được đánh giá là một chiến sĩ tháo vát, xông xáo, luôn tự giác hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Khi ta mở chiến dịch Tây Bắc, Thượng Lào, Nguyễn Hữu Oanh đã được giao là tổ trưởng tổ 3 người. Anh lập được chiến công trong chiến dịch đó nên được thưởng huân chương Chiến thắng hạng ba.

Ngày 21 tháng 11 năm 1953, tại bắc Phú Thọ, đúng thời điểm đơn vị nhận lệnh hành quân lên Tây Bắc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ thì Nguyễn Hữu Oanh vinh dự được kết nạp vào Đảng.

Là đảng viên dự bị, lại có sức khỏe tốt, Oanh luôn đi đầu trong đơn vị về mọi công việc. Đầu xuân 1954, bắt đầu vào chiến dịch, đơn vị được tham gia kéo pháo vào trận địa. Hôm ấy, bất ngờ địch trong cứ điểm nống ra định đánh chiếm đồi 674 hòng ngăn chặn đường kéo pháo của ta, Oanh đã cùng trung đội kiên cường phòng ngự, tiêu diệt 100 tên địch, giữ vững 2 mỏm đồi, bảo vệ pháo an toàn. Trong trận này, Nguyễn Hữu Oanh lại được đơn vị bình công đề nghị trên thưởng huân chương Chiến công hạng ba.

Sáng 13 tháng 3 năm 1954, một sự kiện trọng đại đến với đơn vị và cá nhân Nguyễn Hữu Oanh: Đại đội 243 được trung đoàn chọn giao nhiệm vụ là mũi chủ công của Tiểu đoàn 11, có nhiệm vụ đánh chiếm mỏm 1, cứ điểm Him Lam mở màn chiến dịch.

Với Nguyễn Hữu Oanh, cũng vào buổi sáng 13 tháng 3 lịch sử đó, tại tuyến xuất phát tiến công của đại đội, anh nhận được quyết định của đảng ủy cấp trên công nhận trở thành đảng viên chính thức của Đảng. Về chỉ huy, anh được giao làm tiểu đội trưởng tiểu đội xung kích mà đơn vị gọi là tiểu đội “dao nhọn”. Nhiệm vụ của tiểu đội “dao nhọn” là sau khi công binh mở thông cửa mở mỏm 1, tiểu đội có nhiệm vụ đánh thẳng vào tung thâm và cắm cờ Quyết chiến Quyết thắng lên sở chỉ huy địch.

Đến 17 giờ, cấp trên phát lệnh nổ súng đánh Him Lam. Sau 3 giờ chiến đấu quyết liệt, Tiểu đoàn 428 chiếm được mỏm 2 và 3. Nhưng hướng mỏm 1, địch trong cứ điểm kháng cự rất quyết liệt, nhiều đoạn hào bị địch đánh mìn san lấp. Trung đội 7 bộc phá của Đại đội 243 sau khi phá được 7 hàng rào, đến hàng rào cuối cùng thì bất ngờ bị 2 hỏa điểm địch bắn chéo trước cửa mở như vãi đạn. Lợi dụng lúc địch tạm ngừng bắn, bộc phá viên dự bị xông lên nhưng chưa kịp điểm hỏa thì hy sinh. Phát hiện được hỏa điểm ngầm của địch, chỉ huy đại đội điều 4 đại liên chế áp quyết liệt và bộ phận bộc phá nhanh chóng phá bung hàng rào cuối cùng của địch.

Chớp thời cơ, Tiểu đội trưởng xung kích Nguyễn Hữu Oanh dẫn đầu tiểu đội lao vào tung thâm cứ điểm. Bị địch bắn chặn, Oanh nhanh chóng phân công 5 chiến sĩ đánh các lô cốt nhỏ, anh đánh lô cốt mẹ. Sau khi lừa địch, bằng động tác rất mau lẹ, Oanh áp sát cửa lô cốt và chỉ cần một quả thủ pháo, bọn địch trong lô cốt đã bị anh diệt gọn.

Thừa thắng, Oanh lao lên nóc lô cốt, phất mạnh lá cờ Quyết chiến Quyết thắng mấy vòng ra hiệu cho toàn đơn vị tràn vào trung tâm, hoàn toàn làm chủ cứ điểm Him Lam. Lúc ấy là 22 giờ 30 phút.

Sau khi góp công trận diệt Him Lam, Nguyễn Hữu Oanh được vinh dự đi báo cáo kinh nghiệm chiến đấu ở một số đơn vị tại mặt trận. Những ngày cuối tháng 3, anh lại cùng đơn vị luồn sâu đánh tiêu diệt tiểu đoàn dù 5, tiểu đoàn 6 Âu - Phi đóng chốt giữa đồi D và đồi E, đánh địch trên điểm cao 210… Trận nào anh cũng cùng tiểu đội kiên quyết tiến công địch với tinh thần của trận Him Lam.

Nhưng thật không may, gần trưa ngày 4-4-1954, sau khi nhận nhiệm vụ, trên đường từ đại đội về tiểu đội, Nguyễn Hữu Oanh bị vướng mìn địch. Hậu quả đến với anh thật nặng nề, 2 mắt bị mù và một cẳng tay bị giập nát phải cắt bỏ, tình trạng thương tật sau này được xác định loại đặc biệt. Vậy là khi chiến dịch đến hồi quyết liệt anh phải xa đồng đội để về hậu phương điều trị và với tuổi 24, mất đôi mắt và một cánh tay, cú sốc tinh thần với anh thật nặng.

Tuy không được chứng kiến ngày chiến dịch lịch sử toàn thắng, nhưng thành tích, tấm gương chiến đấu của người thương binh đặc biệt Nguyễn Hữu Oanh được lãnh đạo, chỉ huy, đồng đội ghi nhận trân trọng. Tại đơn vị, trong đợt tổng kết mừng công kết thúc chiến dịch, tuy vắng, nhưng anh vẫn được các cấp từ đại đội đến trung đoàn bình bầu là Chiến sĩ thi đua. Trung tuần tháng 7-1954, tại đại hội mừng công của Đại đoàn 312, Nguyễn Hữu Oanh vinh dự được xác định là đại biểu danh dự (vì anh đã về tuyến sau điều trị) và được Đại hội bình bầu là 1 trong 13 Chiến sĩ thi đua cấp Đại đoàn cùng các liệt sĩ Trần Can, Phan Đình Giót và được tặng thưởng huân chương Chiến công hạng 2.

Tên anh đã được sửa

Hòa bình lập lại, Nguyễn Hữu Oanh được chuyển về trại thương binh hỏng mắt Trung ương ở phố Nguyễn Thái Học. Năm 1959, tuy thương tật nặng nhưng một cô gái cùng quê là Nguyễn Thị Thanh đã yêu thương anh và đám cưới được tổ chức tại quê nhà. Sau đó chị được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhận vào làm công tác nuôi dạy trẻ tại Trại nhi đồng Miền Bắc. Hạnh phúc gia đình đã giúp anh vượt qua nỗi đau mất mát và niềm vui lớn nhất là anh chị sinh được 3 con và các cháu sau này đều trưởng thành.

Năm 1996, anh làm thủ tục rời trại thương binh về ở với gia đình tại khu tập thể Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương, số 35 phố Pháo Đài Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội.

Tháng 1-2006 do tái phát vết thương, bác Nguyễn Hữu Oanh, người đảng viên 53 tuổi đảng, người thương binh đặc biệt qua đời ở tuổi 77.

Điều đáng tiếc là đến cuối năm 2003, qua câu chuyện với bạn bè của gia đình, bác Nguyễn Hữu Oanh mới biết sự việc mình cắm cờ trong trận đánh Him Lam được ghi vào cuốn lịch sử của sư đoàn và nhiều cuốn sách tổng kết, hồi ký của một số nhân chứng viết về Điện Biên Phủ, nhưng lại viết là Trần Oanh.

Hiểu sự tình, chạnh buồn, nhưng bác tâm sự nôm na rằng, mình vẫn còn may và còn được hưởng hạnh phúc, rất nhiều đồng đội khác không được chứng kiến ngày chiến thắng.

Trong lúc bạn bè, chỉ huy cũ đang làm thủ tục đề nghị đơn vị đính chính tên trong cuốn sử thì bác mất.

Rất may, việc tìm nhân chứng xác nhận để làm thủ tục sửa tên cho Nguyễn Hữu Oanh trong các cuốn lịch sử khá thuận lợi. Trước hết có sự xác nhận của Trung tướng Trần Linh (nguyên Phó tư lệnh Bộ đội Biên phòng). Năm 1951 ông đã về Thanh Hóa nhận chiến sĩ mới trong đó có Nguyễn Hữu Oanh. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông lại là Chính trị viên Tiểu đoàn 11, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, trực tiếp bồi dưỡng Nguyễn Hữu Oanh báo cáo thành tích đánh trận Him Lam.

Một điều may mắn nữa là tại kho lưu trữ của Thư viện Trung ương Quân đội, tôi đã tìm được trong tập lưu Báo Quân đội nhân dân số báo 131 ra ngày 20-7-1954 có bài “Đại hội mừng công chiến thắng Điện Biên Phủ”, trong phần “Tại đoàn X” báo đã đăng tên, chức vụ 13 chiến sĩ thi đua của đoàn X (mà nội dung là Đại đoàn 312), trong đó Nguyễn Hữu Oanh được ghi tên ở số thứ tự thứ 4 với chức vụ A trưởng xung kích (sau các tên Trần Can, Phan Đình Giót, Lương Văn Vọng).

Bài báo còn có lời bình: Các chiến sĩ anh hùng ấy mỗi người một vẻ, thật xứng với ý nghĩa chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Như đồng chí Nguyễn Hữu Oanh, người tổ trưởng xung kích vượt qua lưới đạn, lanh lẹn nhảy lên chóp chỉ huy sở địch, giương cao ngọn cờ “Quyết chiến Quyết thắng” của Bác trong trận Him Lam…

Từ những tư liệu trên, Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn 312 phối hợp với Viện Lịch sử Quân sự đã nhanh chóng xác minh và ngày 3-12-2008 đã có quyết định đính chính tên cho người Tiểu đội trưởng xung kích cắm cờ trên đồi Him Lam đêm 13-3-1954 là Nguyễn Hữu Oanh, thay cho tên đã bị viết sai là Trần Oanh. Trên Tạp chí Lịch sử Quân sự số tháng 3 năm 2009, trong mục “Sửa lại cho đúng - bàn thêm cho rõ” cũng có bài viết nói rõ Nguyễn Hữu Oanh là người cắm cờ trên cứ điểm Him Lam trong trận đánh đêm 13-3-1954.

Nhân kỷ niệm lần thứ 55 chiến thắng Điện Biên Phủ, với bài viết nhỏ này, tôi muốn như thắp nén nhang tưởng nhớ người dũng sĩ cách đây 55 năm đã góp công cắm cờ Tổ quốc trên nóc lô cốt quân thù giữa cứ điểm Him Lam.

Bài và ảnh: TRỊNH THANH PHI