Mùa thu năm 1975, niềm vui náo nức nước nhà thống nhất vẫn đang rạo rực, chúng tôi được triệu tập về Trường sĩ quan Lục quân 1 để đào tạo. Ngày vào Nam năm 1972, phải hành quân bốn tháng trời ròng rã. Nay ra Bắc, ngồi xe ca từ Củ Chi ra Sơn Tây chỉ mất một tuần. Cánh tiểu đoàn 2 đào tạo chỉ huy phân đội được lệnh lên huyện miền núi Lương Sơn (Hòa Bình). Suốt mấy năm Tây Nguyên, Tây Nam Bộ nay lại ở giữa những nhấp nhô núi đá, bạt ngàn rừng nứa, đồi gianh…

Học viên Trường sĩ quan Lục quân 1 hành quân dã ngoại. Ảnh: T.H

Khóa 36 của chúng tôi là khóa học đầu tiên thời hòa bình. Anh em đều tốt nghiệp phổ thông, có huân chương, bằng dũng sĩ, ít nhiều đều tham gia vài trận đánh trở lên. Toàn khóa tới hơn năm trăm học viên, biên chế vào bốn tiểu đoàn. Tiểu đoàn 2 có 3 đại đội, C4 bọn tôi được gọi là đại đội thành phố, bởi đa phần anh em ở Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì, Vinh, Nam Định… Tôi là người duy nhất của tỉnh Hà Tuyên. Cánh Hà Nội thì trội hẳn, tới ba chục vị: Nguyễn Quốc Việt, Nguyễn Lập, Đắc Sơn, Phạm Liệu, Cường, Thái, Luận… lúc nào cũng ra dáng Tràng An. Anh em vào bộ đội hai, ba năm, ít nhất cũng một năm nhưng về trường mới được huấn luyện từ đầu, cái gì cũng phải học. Căng thẳng vậy mà ai cũng chuyên tâm...

Tiểu đội tôi có 11 anh, Bùi Thanh Lịch quê Hòa Bình làm A trưởng. Các cậu Việt, Liêu, Lập, Tiệp dân Hà Thành. Trung đội trưởng Nguyễn Quang Nhu quê Đoan Hùng, Nguyễn Văn Phiếu dân Thái Bình làm B phó kiêm chức trung đội luôn đạt xuất sắc, hay được tặng cờ luân lưu, nhiều học viên giỏi, đàn hát, thể thao đều khá. Nguyễn Kim Khoa (Vĩnh Phú) rất chăm học, nhiều hôm thắp đèn dầu ôn bài tới gần sáng, chủ nhật cũng dành ra mấy tiếng để học. Tôi và Khoa thường đạp xe từ Sơn Tây, qua đò Triều Dương về nhà Khoa ở xã Sơn Dương, huyện Lâm Thao ngủ lại, sáng hôm sau tôi lên Phú Thọ chờ mua vé ô tô đi tiếp. Học viên chúng tôi sống rất tình cảm, gắn bó yêu thương nhau như ở chiến trường. Có bận đi lấy củi, khoán 30 cân mỗi người, tôi bị lạc trong rừng xóm Vé. Giờ nghỉ trưa không thấy tôi, Đào Phúc Lâm và anh em vào rừng tìm, mệt và đói gặp đồng đội mừng quá Lâm đưa cho tôi cái bánh cắt. Bánh làm bằng bột sắn, đường đỏ, hai hào một chiếc, ăn vào tỉnh hẳn người ra.

Những năm 1976-1977 miền Bắc đói lắm, thứ gì cũng tem phiếu, cơm toàn mỳ, ngô, sắn. Chính ủy bảo: “Ta gọi là ăn trộn, giàu dinh dưỡng”. Cả trường ra sức tăng gia, sản lượng rau luôn đạt kỷ lục. Lợn thì có nuôi nhưng phải do hậu cần tiểu đoàn ra lệnh mới được mổ, tiêu chuẩn thịt tính theo gram. Mâm cơm, thức ăn chủ yếu là rau, chủ điểm là món luộc, đĩa thịt thái mỏng tang, mỗi người đúng ba miếng!… Một cậu “quên mất” gắp nhầm miếng thứ tư, ắt là có người bị hụt.

Sau giờ huấn luyện, một số được chọn ra tập văn nghệ, thể thao để thi thố, còn lại cứ hùng hục cuốc đất, gánh nước, lấy phân, đào hố, rào vườn. Nhiều hôm đến tận kẻng cơm mới được nghỉ. Tối, đúng bảy giờ là đọc báo. Chẳng họp gì thì đọc từ bài xã luận đến mục chương trình màn ảnh Hà Nội hôm nay… Nói chung tuần nghỉ có tối thứ bảy, cả tiểu đoàn có một chiếc ti-vi Nép-tuyn Ba Lan, chạy ắc qui, cứ vỗ bồm bộp mới xem rõ.

Sức lực chúng tôi dồi dào nên ít khi ốm đau, mà có ốm cũng không dám nghỉ. Khẩu súng 12,7mm nặng gần tạ, chia thành 4 bộ phận. Nặng nhất là bộ phận chân 32 cân, ấy thế mà cứ băng băng quần quật suốt ngày, ai cũng khỏe, vui. Giờ giải lao là chuyện như pháo nổ. Ban chỉ huy có sáng kiến lập một bảng thông tin kết quả học tập rèn luyện. Bên trái viết phấn đỏ là người được điểm giỏi. Ở giữa viết phấn vàng là điểm khá, còn bên phải điểm trung bình phấn xanh. Ai bị năm, sáu thì toát mồ hôi… Cậu Cường ở Hà Tĩnh, vợ ra chơi thấy tên chồng trên bảng cứ rối rít hỏi:

- Anh mần răng mà được nêu tên trên bảng mãi hè?

Thì ra bảng tin có tên Cường ở mục “gấp chăn chưa đẹp” làm cậu ta ngượng đỏ cả mặt.

Cuối năm bảy tám, đầu năm bảy chín, chiến sự lại nổ ra. Học viên năm cuối cùng anh em các nhà trường quân sự lại ba lô lên đường tới những vùng biên cương, hải đảo của Tổ quốc. Đoàn chúng tôi rải ra có mặt khắp sáu tỉnh biên giới phía Bắc. Nửa đại đội đi vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh. Phạm Liệu và tôi về làm khung cho đơn vị ở Bản Chất, huyện Đình Lập (Lạng Sơn). Khi ấy chưa có bằng tốt nghiệp nên chủ yếu được giao nhiệm vụ cấp phó đại đội. Tiểu đoàn anh em học viên rất dũng cảm, có người được thưởng huân chương, có người hy sinh, có người bị thương. Những năm lục quân ai cũng trưởng thành vững vàng trong thử thách.

Ngoảnh đi ngoảnh lại ra trường đã gần ba chục năm. Khóa 36 rất đáng nể phục, đại đa số thành đạt, mấy người được phong quân hàm cấp tướng. Nguyễn Kim Khoa nay là Thiếu tướng phó tư lệnh Quân khu 2. Đào Phúc Lâm là đại tá chỉ huy vùng biển Tây Nam. Cao Tân là đại tá chỉ huy phòng không. Trần Lộc, Hòa, Cường, Triệu, Đại, Bình… đều là đại tá cơ quan Bộ Quốc phòng. Bây giờ nhiều người lên ông nội, ông ngoại, gia đình con cái trưởng thành. Có người con trai, con rể đang là thế hệ học viên của trường hiện nay. Tôi cũng nghỉ hưu năm 2003 sau ba mốt năm quân ngũ. Chất lính vẫn đượm, chất lục quân vẫn dày. Hằng năm, ngày kỷ niệm truyền thống Trường sĩ quan Lục quân 1 tại khu vực Thủ đô, anh em học viên khóa 36 vẫn tề tựu, gặp mặt đầy đủ. Còn rất nhiều anh em cựu học viên khác đang ở khắp mọi miền của Tổ quốc, người còn tại ngũ, người đã nghỉ hưu, người chuyển ngành, người là thương binh, bệnh binh… Ai cũng mong mỏi có dịp gặp nhau, ôn lại những năm tháng không thể nào quên của thời học viên khóa 36 rất đỗi tự hào.

LÊ GIANG SƠN (CCB phường Phan Thiết, thị xã Tuyên Quang)