 |
Nét quê. Ảnh: Diễn Đàm |
Các cụ tôi truyền lại, rồi ông bà tôi kể rằng, đến mãi năm Canh Thân, tức là năm 1920, tại các quầy tạp hóa ở Hà Nội, dọc Hàng Ngang-Hàng Đào-chợ Đồng Xuân... cũng chưa có ai bán những cái gương soi hình chữ nhật to bằng vỏ bao diêm “Quả Đào” hoặc hình tròn thì to bằng cái miệng chén Tống.
Ngoài phố Thủ đô còn như thế thì ở cái chợ Giấy, chợ Bằng, chợ Giả Quỳnh Đô, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay) bói đâu ra cái thứ “quý giá sang trọng” ấy, dù là con nhà giàu như ông Đội Thụ, bà thủ quỹ Bùi ở làng tôi-không có gương soi vì lúc đó nước ta chưa có công nghệ làm kính, làm gương... Vì vậy, các cô gái làng thuộc loại xinh đẹp có tiếng cũng phải đến cái giếng cổ phía cuối làng Cổ Điển ở đầu ngã ba xóm Giếng, xóm Cậy mà soi dung nhan. Nói là soi nhưng cũng phải chờ lúc vắng người mới dám cúi xuống sửa tóc đuôi gà, vuốt đôi lông mi, nắn lại vành khăn mỏ quạ. Nếu soi công khai thì mang tiếng là gái lẳng lơ!
Cái giếng đá cổ còn có tên là giếng Thơi, không biết được đào từ bao giờ, nhưng là giếng đá lạ: giếng sâu chừng 10m, đường kính gần 2m, xung quanh từ đáy giếng trở lên được xếp bằng những cái cối đá giã gạo đã thủng đáy nên bờ giếng rất vững chắc. Nước giếng quanh năm trong sạch, là nguồn nước ăn, uống của cả làng trước năm 1975. Dưới đáy giếng (mà tôi đã mò xuống) là một tấm lim rất dày, được sử dụng làm vật kê cối đá. Giếng có mạch nước ngầm rất đặc biệt, nghĩa là múc bao nhiêu cũng không cạn. Tại thôn Cương Ngô (cùng xã Tứ Hiệp ngày nay) cũng có một cái giếng cổ tương tự nhưng nước không trong bằng.
Vì là giếng đá cổ, hình thù lạ nên đã được dân gian huyền thoại hóa, linh thiêng hóa, coi đó là một trong 99 cái giếng do Cao Biền đời Đường (618-907) đào để cắt đứt long mạch trên đất Thanh Trì, phía nam Thăng Long ngày xưa. Cái thành giếng cũng là mấy phiến đá quây thành hình tròn có nhiều vết khía. Các cụ truyền rằng, đấy là những đường khía của dây thừng kéo mo nước!? Đặc biệt, phía cửa thành giếng có 2 vết bàn chân lõm sâu xuống đá, được giải thích là bàn chân của hàng ngàn năm chồng lên nhau để người đứng kéo gầu nước?!
Nếu so với gia phả họ Chử, cụ Trần Nguyên Chấn, quê tỉnh Hải Dương, phủ Thượng Hồng, huyện Đương Bào, xã Liên Xá tái hôn với bà Chử Thị Thu làng Cổ Điển, tổng Cổ Điển, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông là thời vua Vĩnh Khánh (4-1729/8-1732) thì đúng là cái giếng cổ của làng đã có trước đó rất lâu.
Nếu so với bản “làng khoa bảng Cổ Điển” của Phó giáo sư sử học- Tiến sĩ Nguyễn Minh Tường (Viện sử học) thì làng Cổ Điển hiện nay vẫn còn cái “Cầu Dạ” (tên chữ là “Điền kiều”, nơi hai tướng Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục dưới trướng Vạn Thắng vương Đinh Bộ Lĩnh, khi ban hiệu lệnh đi đánh sứ quân Nguyễn Siêu (thế kỷ X), tất cả quân lính đều hô đồng loạt “dạ” như là chữ “tuân lệnh” bây giờ. Như vậy, cho ta kết luận rằng, cái giếng đá cổ ấy đã có trước thế kỷ thứ X.
Và một chi tiết đáng lưu ý nữa là vào khoảng thời nhà Mạc (1527-1592) một trận vỡ đê sông Hồng ở đoạn Đỉnh Nhĩ (cái tai) đã cắt đứt làng Cổ Điển thành 2 phần nên gọi là Cổ Điển trên, Cổ Điển dưới. Huyện Thanh Trì xưa có tên là Thanh Đàm. Dưới đời vua Lê Thế Tông (1573-1600) vì kỵ húy tên vua là Đàm nên đổi là Thanh Trì (cái giếng đã có trước đó). Sinh thời cụ Tổng Lược-người giàu chữ nho nhất vùng bảo rằng, 2 cái giếng đá ở xã Cổ Điển và làng Cương Ngô (nay đều là 1 trong 4 thôn của xã Tứ Hiệp) là đôi mắt rồng!? Nhờ uống nước giếng đá cổ ấy mà xã Cổ Điển đã có tới 4 ông đỗ Tiến sĩ thời phong kiến (từ năm 1446 đến 1553).
Cũng do một làng có tới 4 Tiến sĩ nên được xây nhà Văn Chỉ để dựng bia, tôn vinh các danh nhân khoa bảng.
Nhà Văn Chỉ của xã, cách cái giếng cổ gần 50m đường chim bay đã bị bom Mỹ phá hoại năm 1972 nhưng cái giếng cổ vẫn còn nguyên.
Tiếc rằng, có một số cán bộ xã đã lợi dụng cơ hội này, lấy cả hoành phi câu đối, khiêng cả tấm bia “Cổ Điển xã Văn Chỉ bia ký” cùng những tảng đá kê cột nhà Văn Chỉ về làm việc riêng, may mà tấm bia chưa bị đập, nay được dựng ở ngôi Đình Trung, mới được xây lại thuộc thôn Cổ Điển A. Ngôi đình ngày trước có tên là “Trung Linh Ứng”. Còn đình Ba Dân thì đã có hơn 600 tuổi.
Đáng buồn hơn, năm 2004, huyện Thanh Trì cho xã Tứ Hiệp tiền để xây (trên khuôn viên đất Văn Chỉ cũ) nhưng không xây theo kiểu nhà Văn Chỉ mà xây nhà Văn hóa của thôn Cổ Điển.
Nếu cứ đà “văn minh” này thì e rằng, cụm di tích lịch sử của xã, gồm đình Trung, đình Ba Dân, chùa Long Quang cùng các cổng làng, cổng xóm có đắp những đôi câu đối cổ rất có giá trị về nền văn hiến Thăng Long... cũng sẽ bị đập trong một tương lai không xa!
Tôi không dám so sánh với làng cổ Đường Lâm (Hà Tây) nhưng nếu khéo bảo tồn, tu bổ thì Thủ đô Hà Nội sẽ có thêm một điểm du lịch văn hóa rất đáng tự hào.
Nhưng chưa có ai đứng ra kêu cứu với các cấp lãnh đạo đương thời, bảo tồn lấy làng Cổ Điển!
Ngọc Minh