Trong khoảng 16 năm (1786-1802) nước ta lâm vào cảnh tao loạn liên miên. Ban đầu là sự lớn mạnh của phong trào Tây Sơn đánh đổ vương triều Lê-Trịnh. Tiếp đó là sự hồi phục của chúa Nguyễn thống nhất đất nước. Rất nhiều gương mặt kiệt hiệt xuất hiện trong thời kỳ này. Trường Phái hầu Lê Quýnh là một người trong số đó.
Lê Quýnh sinh năm 1750 trong một gia đình khoa bảng ở làng Đại Mão (Hoài Thượng-Thuận Thành-Bắc Ninh). Ông nội là hương cống Lê Doãn Nghi. Cha là tiến sĩ Lê Doãn Giản, làm quan chức Hình bộ thị lang, tước Đại Nham hầu. Chú ruột là tiến sĩ Lê Doãn Thân, làm quan chức Lạng Sơn đốc trấn, tước Tú Xuyên hầu. Lê Quýnh thời trẻ cũng theo nghiên bút. Năm 1770 ông được tuyển làm nho sinh Sùng Văn Quán và tập ấm hàm Hiển cung đại phu. Năm 1774 ông về quê để tang cha và ở lại nhà hầu mẹ. Năm 1786 quân Tây Sơn tiến ra bắc, Lê Quýnh tự lập đội quân 300 người ra giúp triều đình. Vua Lê Chiêu Thống cử ông đi phủ dụ vùng Giang Bắc, xong việc được phong tước bá. Năm 1787 ông giữ đạo kỳ binh của Bình Khấu tướng quân Đinh Nhã Hành chặn quân Vũ Văn Nhậm ở Vũ Châu (Nam Định) một tháng liền. Tháng hai năm 1788 Lê Quýnh được phong Trường Phái hầu. Khi quân Tây Sơn tiến đánh Thái Nguyên, vua cử Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống (anh quý phi Nguyễn Thị Kim) đi hộ giá Thái hậu và thái tử lánh lên Cao Bằng. Tháng 5 quân Tây Sơn tiến đến Cao Bằng, Lê Quýnh cùng các quan địa phương đưa gia quyến nhà vua lánh sang đất Thánh. Tháng 7 Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống theo đường biển về nước theo phò vua Lê Chiêu Thống. Tháng 9 vua lại cử ông cùng Hương Phái hầu Lê Duy Đản, Đinh Nhạc bá Trần Danh Án đi đón quân Thanh sang giúp vua đánh quân Tây Sơn. Cuối tháng 11 quân Thanh chiếm Thăng Long, vua phong ông làm Tổng binh, sau lại chuyển giữ chức Bình chương sự quản bộ Binh và bộ Hộ. Nhưng ông bị sốt rét phải về quê chữa chạy. Mùa xuân 1789 Quang Trung đại phá quân Thanh, vua Lê cùng gia quyến phải theo quân Thanh lưu vong. Lúc này Lê Quýnh đang chữa bệnh ở quê. Lòng trung của ông với vương triều chính thống trong thời điểm cam go này vẫn sắt son. Ông đã đứng ra chiêu tập quân tướng nhà Lê chờ thời. Đến tháng 7 năm ấy, ông sang Thanh theo yêu cầu của Tổng đốc Phúc Khang An. Nhà Thanh yêu cầu phái đoàn Lê Quýnh phải gọt tóc và thay đổi y phục Mãn Thanh rồi ban cho chức quan lưu vong. Lê Quýnh một lòng muốn phục quốc, phò vua nên cương quyết cự tuyệt. Ông đáp: Nay chúng tôi nguyện trở về. Nếu có làm đầu Nghiêm lưỡi Nhan (hai trung thần trong tác phẩm Chính khí ca của Văn Thiên Tường người thà bị giam đến chết chứ không hàng) thì đúng sự cam tâm. Chúng tôi đầu có thể chặt, tóc không thể róc, da có thể lột, đồ mặc không thể đổi (theo Bắc hành tùng ký).
Bắt đầu từ đây, Lê Quýnh cùng con trai, em thúc bá Siêu Lĩnh hầu Lê Doãn Trị và các vị cùng đi bị nhà Thanh giam lỏng 13 năm liền. Trong thời gian bị giam ở Bắc Sở thuộc bộ Hình, ông làm bài phú nổi tiếng bày tỏ chí khí nhan đề Bắc Sở tự tình phú. Cũng trong thời gian này, các vị đại thần Đinh Nhã Hành, Nguyễn Quốc Đống, theo yêu cầu của nhà Thanh, có đến thăm và vận động Lê Quýnh quy phục nhưng ông không nghe: Các ông và bọn tôi đường lối khác nhưng lòng thì đồng. Nếu ai cũng như tôi thì ai kẻ hầu vua? Nếu ai cũng như các ông thì ai giữ tiết? Mãi đến năm Gia Khánh thứ 5 (1800) phái đoàn Lê Quýnh mới được thả nhưng vẫn bị an trí ở xưởng Lam Đĩnh.
Đến năm 1804 biết nhà Nguyễn đã lên thay nhà Tây Sơn, phái đoàn Lê Quýnh và những người tòng vong theo vua Lê được phép mang thi hài vua về nước. Mặc dù được nhà Nguyễn trọng dụng nhưng gia đình Lê Quýnh 3 người đều từ chối, xin về quê vui thú điền viên. Ngày 1 tháng 9 năm 1805 Lê Quýnh qua đời ở quê.
Lê Quýnh là con người của thiên địa chính khí. Nhân dân ta cũng ca ngợi ông qua câu chuyện đượm màu cổ tích trong sách Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam nhan đề: Truyện Lê Quýnh.
PHẠM THUẬN THÀNH (Ghi chú: Bài viết dựa theo sách Bắc hành tùng ký và tư liệu nhà thờ họ Lê Doãn ở Đại Mão)